phân tích đất nước đoạn 3
Tổng hợp Dàn ý phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi do THPT Trịnh Hoài Đức sưu tầm và biên soạn.Qua dàn ý và các bài văn mẫu được biên soạn ngắn gọn, chi tiết, hay nhất dưới đây sẽ giúp các bạn có thêm tài liệu, các cách hành văn khác nhau, qua đó có thể tiếp cận tác phẩm với cái nhìn đa
2.Top 9 mẫu phân tích bài thơ Đất nước hay chọn lọc – HoaTieu.vn; 3.Phân tích Đất nước hay nhất (21 Mẫu) – Văn 12 – Download.vn; 4.Phân tích Thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm – Gia sư Thành Tài; 5.Phân tích bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm – thủ thuật; 6.Phân
Nền văn học Việt Nam giai đoạn năm 1945-1975 là nền văn học mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, bên cạnh các đề tài “lực lượng vũ trang- chiến tranh cách mạng” thì các đề tài xây dựng đất nước, hoặc ca ngợi đất nước cũng được nhiều tác giả chọn đưa vào tác phẩm của mình mới những
Phân Tích Đất Nước Ngắn Gọn – Bài 1. Phân Tích Đất Nước Chi Tiết – Bài 2. Phân Tích Đất Nước Nguyễn Đình Thi Hay – Bài 3. Phân Tích Bài Thơ Đất Nước Nguyễn Đình Thi Đặc Sắc – Bài 4. Phân Tích Đất Nước Nguyễn Đình Thi Học Sinh Giỏi – Bài 5. Phân Tích Bài Thơ
1 Đề bài: Lập dàn ý phân tích đoạn cuối bản Tuyên ngôn độc lập . 1.1 1. Bối cảnh lịch sử đất nước ta giai đoạn từ năm 1940 – 1945: 1.2 2. Lời khẳng định đanh thép về độc lập, chủ quyền, tự do dân tộc ; 1.3 3. Cơ sở pháp lý của bản Tuyên Ngôn độc lập
Phân tích bài thơ Đất nước đoạn 3. Đất nước được tạo nên bởi tâm hồn, bởi tâm hồn của mỗi người con dân tộc đã gửi gắm cả tình yêu và máu thịt của mình vào đó. Khổ thơ thứ ba là những lí lẽ đanh thép nhưng cũng không kém phần trữ tình của Nguyễn Khoa
Atm Online Lừa Đảo. Phân tích bài thơ Non sông đoạn 3 hay nhất Hình Ảnh về Phân tích bài thơ Non sông đoạn 3 hay nhất Video về Phân tích bài thơ Non sông đoạn 3 hay nhất Wiki về Phân tích bài thơ Non sông đoạn 3 hay nhất Phân tích bài thơ Non sông đoạn 3 hay nhất – Phân tích bài thơ Non sông đoạn 3 Non sông được tạo nên bởi tâm hồn, bởi tâm hồn của mỗi người con dân tộc đã gửi gắm cả tình yêu và máu thịt của mình vào đó. Khổ thơ thứ ba là những lí lẽ gang thép nhưng cũng ko kém phần trữ tình của Nguyễn Khoa Điềm, qua đó giúp người đọc trả lời câu hỏi Non sông do người nào làm ra? “Vợ nhớ chồng cũng góp núi Vọng Phu cho quốc gia. Những đôi trai gái yêu nhau góp mặt ở hòn Trống Mái. Vó ngựa Thánh Gióng đi qua, nhưng trăm ao đầm vẫn còn Chín mươi chín con voi góp phần xây dựng đất tổ Hùng Vương Những con rồng nằm im trong dòng sông xanh thẳm Chàng thư sinh nghèo giúp nước núi Bút, núi Nghiên. Con cóc và con gà cùng góp phần đưa Hạ Long trở thành thắng cảnh Những người góp công mang tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm Và ở khắp mọi nơi trên những cánh đồng và những ngọn đồi Ko có một hình hài, một ước muốn, một cách sống của người cha ”. Điểm qua, có thể thấy ở đây Nguyễn Khoa Điềm đã trình bày một cái nhìn rất mới và lạ mắt của thi sĩ. Xưa nay, viết về những danh lam thắng cảnh đẹp, hoang vu của dân tộc, là mảnh đất, là đề tài nhưng mà bao người cày cuốc, bao bước chân khát khao khám phá. Nhưng ở họ, người đọc chỉ thấy được vẻ đẹp rộng lớn, trẻ trung của tấm gấm nhưng mà chưa thấy được cái hồn sâu lắng đằng sau từng mảnh đất, cảnh vật. Tuy nhiên, tới với Nguyễn Khoa Điềm, thi sĩ ko nhìn danh lam thắng cảnh ở tâm hồn bên ngoài nhưng mà nhìn sâu vào tận xương tủy tâm hồn để thấy được những huyền thoại, những trầm tích văn hoá, lịch sử khắc sâu trong đó đó là những truyền thuyết thiêng liêng. , thấm nhuần ý thức thượng võ của dân tộc, là những địa danh gắn liền với phong tục, văn hóa hay với những câu chuyện về con người và lịch sử được lưu giữ từ nghìn đời nay. Thứ hai, trong hành trình đi tìm câu trả lời cho câu hỏi Non sông do người nào làm ra, thi sĩ Nguyễn Khoa Điềm ko chỉ trình bày một dung mạo mới nhưng mà còn trình bày một cách cảm nhận mới. Thế núi hình sông ko phải là tạo hóa của tự nhiên nhưng mà là sự hóa thân của tâm hồn con người. Từ nỗi đau trong cuộc đời của mỗi tư nhân, mỗi thân phận đã hóa thân để tạo nên hình hài, khát vọng về lối sống của người cha. Sự tích về hòn Vọng Phu ko chỉ gợi lên cảnh chia ly, hy vọng dài dằng dặc trong chiến tranh nhưng mà còn truyền tụng tình yêu chung tình của những người vợ nhớ chồng. Cách đặt tên Hòn Trống, Hòn Mái của dân gian qua con mắt của thi sĩ đã trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp của sự sinh sôi, nảy nở cho tình yêu lứa đôi vĩnh cửu. Những ngọn đồi thấp xung quanh núi Hy Cương nơi có đền thờ các Vua Hùng, qua con mắt của nhân dân, đã trở thành chứng tích của 99 con voi được quy tụ về thuần phục, trở thành biểu tượng của lòng dân đồng lòng hướng về quốc gia. thống nhât. Núi Bút, Non Nghiên là hình ảnh quốc gia nghìn năm văn hiến với truyền thống hiếu học lâu đời, là hình ảnh quốc gia với gươm giáo trên lưng, bàn tay mềm mại cầm bút hoa. Tương tự, nhìn một cách tổng thể, chúng ta có thể nhận thấy rằng, nếu tự nhiên tạo nên núi sông có hình thù thì chính con người, con người mới tạo nên vong linh cho mỗi ngọn núi, con sông. Xuất phát từ quan niệm Phật nhập thế, Nguyễn Khoa Điềm đã chứng minh rằng nhân dân đã hóa thân vào quốc gia. Bài thơ mở đầu bằng những truyền thuyết trong dân gian, nhưng bay bổng trên toàn cầu đấy nhờ cái nhìn mới mẻ lạ mắt của lối tư duy hiện đại. Núi sông ko còn là cảnh sắc tự nhiên tinh khiết, những câu chuyện văn hóa, lịch sử ko thuần tuý thiêng liêng nhưng mà tất cả dưới con mắt của Nguyễn Khoa Điềm đều được xem như một phần tâm hồn. Máu thịt của nhân dân, là minh chứng thiêng liêng, cảm động về sự đóng góp, hóa thân của nhân dân để làm nên quốc gia. “Ôi Non sông, sau bốn nghìn năm, tôi có thể nhìn thấy nó ở mọi nơi tôi tới Những cuộc đời đã biến núi sông của chúng ta… ” Cái tài hoa và sự tinh tế trong ngòi bút của Nguyễn Khoa Điềm là vừa gợi được thời kì lịch sử, vừa ko gian rộng lớn. Hình như từ đó thi sĩ muốn khẳng định rằng, lặng lẽ trường tồn với thời kì, trung kiên trung thành với ko gian chính là lẽ sống của nhân dân. Bài thơ là một xúc cảm thiêng liêng nhưng mà Nguyễn Khoa Điềm gợi lên về sự đóng góp to lớn và nhập thế nhưng mà nhân dân đã góp phần tạo nên văn hóa, lịch sử, là hồn cốt của dân tộc. Từ đó giúp gắn kết tâm hồn con người từ bao đời nay. Những bài viết liên quan Đăng bởi Trường Trường TH Trảng Dài Phân mục Văn lớp 12, Ngữ văn 12 [rule_{ruleNumber}] Phân tích bài thơ Đất nước đoạn hay nhất [rule_3_plain] Phân tích bài thơ Đất nước đoạn hay nhất Phân tích bài thơ Non sông đoạn 3 Đất Nước được tạo nên bởi vong linh, bởi điệu hồn của mỗi người con dân tộc đã gửi gắm trong đó tình yêu và máu thịt của mình. Đoạn thơ thứ 3 chính là những lập luận vừa sắc bén nhưng mà cũng thắm thiết trữ tình của Nguyễn Khoa Điềm, để từ đó giúp người đọc trả lời câu hỏi Đất Nước do người nào làm nên?“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng PhuCặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống MáiGót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lạiChín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng VươngNhững con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm Người học trò nghèo tạo điều kiện cho Đất Nước mình núi Bút, non cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnhNhững người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà ĐiểmVà ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãiChẳng mang một dáng hình, một ước ao, một lối sống ông cha” Lượt qua có thể thấy, ở đây Nguyễn Khoa Điềm đã trình bày cái nhìn rất mới mẻ, lạ mắt của thi sĩ. Xưa nay, viết về danh lam thắng cảnh, non kì gấm vóc của quốc gia dân tộc, vốn là mảnh đất, là đề tài đã nhiều người cày xới, nhiều bước chân khát khao khám phá tìm kiếm. Nhưng ở họ, người đọc mới chỉ nhìn thấy vẻ đẹp mênh mông, non kỳ thủy tú của giang sơn gấm vóc chứ chưa thấy phần hồn cốt thẳm sâu đằng sau mỗi mảnh đất, danh thắng. Song, tới Nguyễn Khoa Điềm thì thi sĩ ko nhìn danh thắng ở hồn cốt bên ngoài nhưng mà nhìn sâu vào hồn cốt để thấy được những huyền tích, trầm tích văn hóa lịch sử khắc tạc ở trong đó đó là những truyền thuyết thiêng liêng, thấm đượm ý thức thượng võ của dân tộc, là những địa danh gắn với những phong tục tập quán, văn hóa, hay với những câu chuyện về con người, về lịch sử đã được lưu giữ qua hàng nghìn thế hệ. Thứ hai, trong hành trình đi tìm câu trả lời cho câu hỏi Đất Nước do người nào làm nên, thi sĩ Nguyễn Khoa Điềm ko chỉ trình bày cái nhìn mới mẻ nhưng mà còn trình bày cách cảm nhận mới mẻ. Dáng núi hình sông ko phải là sự tạo tác của tự nhiên nhưng mà là sự hóa thân của tâm hồn con người. Từ nỗi đau trong cuộc đời mỗi tư nhân, mỗi thân phận đã hóa thân làm nên một dáng hình, một ước ao một lối sống ông cha. Sự tích hòn Vọng Phu ko chỉ gợi ra cảnh ly tán, sự đợi chờ mòn mỏi trong chiến tranh nhưng mà còn truyền tụng tình nghĩa thủy chung của những người vợ nhớ chồng. Cách gọi tên Hòn Trống, hòn Mái của dân gian qua cái nhìn của thi sĩ đã trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp phồn thực, cho sự son sắt vĩnh cửu của tình yêu lứa đôi. Những quả đồi thấp xung quanh núi Hy Cương nơi có đền thờ các vua Hùng qua cái nhìn của nhân dân đã trở thành chứng tích của đàn voi 99 con quây quần thuần phục, trở thành biểu tượng của lòng dân đồng thuận hướng về quốc gia thống nhất. Núi Bút, non Nghiên là hình ảnh Non sông nghìn năm văn hiến với truyền thống hiếu học lâu đời, hình ảnh của một Đất Nước lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa. Tương tự, lúc nói chung lại ta có thể trông thấy, nếu tự nhiên kiến tạo nên thế núi hình sông, thì nhân dân, chính nhân dân mới là người kiến tạo vong linh cho mỗi ngọn núi con sông. Xuất phát từ quan niệm hóa thân của nhà Phật, Nguyễn Khoa Điềm đã chứng minh nhân dân đã hóa thân vào quốc gia. Đoạn thơ từ khi những huyền thoại của văn hóa dân gian nhưng lại bay bổng trên nền toàn cầu đấy nhờ cái nhìn mới mẻ lạ mắt của phương thức tư duy hiện đại. Những núi sông ko còn là cảnh sắc tự nhiên thuần túy, những câu chuyện của văn hóa lịch sử ko chỉ thuần tuý mang tính chất thiêng liêng, nhưng mà tất cả dưới cái nhìn của Nguyễn Khoa Điềm được nhìn nhận như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân, là minh chứng thiêng liêng xúc động cho sự đóng góp, hóa thân của nhân dân để làm ra Đất Nước.“Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấyNhững cuộc đời đã hoá núi sông ta…” Cái tài hoa và tinh tế trong ngòi bút của Nguyễn Khoa Điềm là vừa gợi được thời kì lịch sử, vừa gợi được ko gian mênh mông. Hình như để từ đó thi sĩ muốn khẳng định, lặng lẽ dai sức cùng thời kì, trung hậu kiên cường trong ko gian là vời vợi những cuộc đời của nhân dân. Đoạn thơ là niềm xúc động thiêng liêng nhưng mà Nguyễn Khoa Điềm gợi nên về sự đóng góp, hóa thân to lớn nhưng mà nhân dân góp vào muôn mặt văn hóa, lịch sử, tâm hồn dân tộc. Từ đó, giúp gắn kết tâm hồn con người muôn thế bài viết liên quanĐăng bởi Trường TH Trảng DàiPhân mục Lớp 12, Ngữ Văn 12 Phân tích bài thơ Đất nước đoạn hay nhất [rule_2_plain] Phân tích bài thơ Đất nước đoạn hay nhất [rule_2_plain] Phân tích bài thơ Đất nước đoạn hay nhất [rule_3_plain] Phân tích bài thơ Đất nước đoạn hay nhất Phân tích bài thơ Non sông đoạn 3 Đất Nước được tạo nên bởi vong linh, bởi điệu hồn của mỗi người con dân tộc đã gửi gắm trong đó tình yêu và máu thịt của mình. Đoạn thơ thứ 3 chính là những lập luận vừa sắc bén nhưng mà cũng thắm thiết trữ tình của Nguyễn Khoa Điềm, để từ đó giúp người đọc trả lời câu hỏi Đất Nước do người nào làm nên?“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng PhuCặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống MáiGót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lạiChín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng VươngNhững con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm Người học trò nghèo tạo điều kiện cho Đất Nước mình núi Bút, non cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnhNhững người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà ĐiểmVà ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãiChẳng mang một dáng hình, một ước ao, một lối sống ông cha” Lượt qua có thể thấy, ở đây Nguyễn Khoa Điềm đã trình bày cái nhìn rất mới mẻ, lạ mắt của thi sĩ. Xưa nay, viết về danh lam thắng cảnh, non kì gấm vóc của quốc gia dân tộc, vốn là mảnh đất, là đề tài đã nhiều người cày xới, nhiều bước chân khát khao khám phá tìm kiếm. Nhưng ở họ, người đọc mới chỉ nhìn thấy vẻ đẹp mênh mông, non kỳ thủy tú của giang sơn gấm vóc chứ chưa thấy phần hồn cốt thẳm sâu đằng sau mỗi mảnh đất, danh thắng. Song, tới Nguyễn Khoa Điềm thì thi sĩ ko nhìn danh thắng ở hồn cốt bên ngoài nhưng mà nhìn sâu vào hồn cốt để thấy được những huyền tích, trầm tích văn hóa lịch sử khắc tạc ở trong đó đó là những truyền thuyết thiêng liêng, thấm đượm ý thức thượng võ của dân tộc, là những địa danh gắn với những phong tục tập quán, văn hóa, hay với những câu chuyện về con người, về lịch sử đã được lưu giữ qua hàng nghìn thế hệ. Thứ hai, trong hành trình đi tìm câu trả lời cho câu hỏi Đất Nước do người nào làm nên, thi sĩ Nguyễn Khoa Điềm ko chỉ trình bày cái nhìn mới mẻ nhưng mà còn trình bày cách cảm nhận mới mẻ. Dáng núi hình sông ko phải là sự tạo tác của tự nhiên nhưng mà là sự hóa thân của tâm hồn con người. Từ nỗi đau trong cuộc đời mỗi tư nhân, mỗi thân phận đã hóa thân làm nên một dáng hình, một ước ao một lối sống ông cha. Sự tích hòn Vọng Phu ko chỉ gợi ra cảnh ly tán, sự đợi chờ mòn mỏi trong chiến tranh nhưng mà còn truyền tụng tình nghĩa thủy chung của những người vợ nhớ chồng. Cách gọi tên Hòn Trống, hòn Mái của dân gian qua cái nhìn của thi sĩ đã trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp phồn thực, cho sự son sắt vĩnh cửu của tình yêu lứa đôi. Những quả đồi thấp xung quanh núi Hy Cương nơi có đền thờ các vua Hùng qua cái nhìn của nhân dân đã trở thành chứng tích của đàn voi 99 con quây quần thuần phục, trở thành biểu tượng của lòng dân đồng thuận hướng về quốc gia thống nhất. Núi Bút, non Nghiên là hình ảnh Non sông nghìn năm văn hiến với truyền thống hiếu học lâu đời, hình ảnh của một Đất Nước lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa. Tương tự, lúc nói chung lại ta có thể trông thấy, nếu tự nhiên kiến tạo nên thế núi hình sông, thì nhân dân, chính nhân dân mới là người kiến tạo vong linh cho mỗi ngọn núi con sông. Xuất phát từ quan niệm hóa thân của nhà Phật, Nguyễn Khoa Điềm đã chứng minh nhân dân đã hóa thân vào quốc gia. Đoạn thơ từ khi những huyền thoại của văn hóa dân gian nhưng lại bay bổng trên nền toàn cầu đấy nhờ cái nhìn mới mẻ lạ mắt của phương thức tư duy hiện đại. Những núi sông ko còn là cảnh sắc tự nhiên thuần túy, những câu chuyện của văn hóa lịch sử ko chỉ thuần tuý mang tính chất thiêng liêng, nhưng mà tất cả dưới cái nhìn của Nguyễn Khoa Điềm được nhìn nhận như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân, là minh chứng thiêng liêng xúc động cho sự đóng góp, hóa thân của nhân dân để làm ra Đất Nước.“Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấyNhững cuộc đời đã hoá núi sông ta…” Cái tài hoa và tinh tế trong ngòi bút của Nguyễn Khoa Điềm là vừa gợi được thời kì lịch sử, vừa gợi được ko gian mênh mông. Hình như để từ đó thi sĩ muốn khẳng định, lặng lẽ dai sức cùng thời kì, trung hậu kiên cường trong ko gian là vời vợi những cuộc đời của nhân dân. Đoạn thơ là niềm xúc động thiêng liêng nhưng mà Nguyễn Khoa Điềm gợi nên về sự đóng góp, hóa thân to lớn nhưng mà nhân dân góp vào muôn mặt văn hóa, lịch sử, tâm hồn dân tộc. Từ đó, giúp gắn kết tâm hồn con người muôn thế bài viết liên quanĐăng bởi Trường TH Trảng DàiPhân mục Lớp 12, Ngữ Văn 12 Bạn thấy bài viết Phân tích bài thơ Đất nước đoạn 3hay nhất có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Phân tích bài thơ Đất nước đoạn 3hay nhất bên dưới để Trường TH Trảng Dài Nghĩacó thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho các bạn nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website của Trường TH Trảng Dài Nhớ để nguồn Phân tích bài thơ Đất nước đoạn 3hay nhất
Phân tích bài thơ Đất nước đoạn 3 Đất Nước được tạo nên bởi linh hồn, bởi điệu hồn của mỗi người con dân tộc đã gửi gắm trong đó tình yêu và máu thịt của mình. Đoạn thơ thứ 3 chính là những lập luận vừa sắc bén mà cũng đằm thắm trữ tình của Nguyễn Khoa Điềm, để từ đó giúp người đọc trả lời câu hỏi Đất Nước do ai làm nên? “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên. Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha” Lượt qua có thể thấy, ở đây Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện cái nhìn rất mới mẻ, độc đáo của nhà thơ. Xưa nay, viết về danh lam thắng cảnh, non kì gấm vóc của đất nước dân tộc, vốn là mảnh đất, là đề tài đã nhiều người cày xới, nhiều bước chân khao khát khám phá kiếm tìm. Nhưng ở họ, người đọc mới chỉ nhìn thấy vẻ đẹp bát ngát, non kỳ thủy tú của giang sơn gấm vóc chứ chưa thấy phần hồn cốt thẳm sâu đằng sau mỗi mảnh đất, danh thắng. Song, đến Nguyễn Khoa Điềm thì nhà thơ không nhìn danh thắng ở hồn cốt bên ngoài mà nhìn sâu vào hồn cốt để thấy được những huyền tích, trầm tích văn hóa lịch sử khắc tạc ở trong đó đó là những truyền thuyết thiêng liêng, thấm đượm tinh thần thượng võ của dân tộc, là những địa danh gắn với những phong tục tập quán, văn hóa, hay với những câu chuyện về con người, về lịch sử đã được lưu giữ qua hàng ngàn thế hệ. Thứ hai, trong hành trình đi tìm câu trả lời cho câu hỏi Đất Nước do ai làm nên, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm không chỉ thể hiện cái nhìn mới mẻ mà còn thể hiện cách cảm nhận mới mẻ. Dáng núi hình sông không phải là sự tạo tác của thiên nhiên mà là sự hóa thân của tâm hồn con người. Từ nỗi đau trong cuộc đời mỗi cá nhân, mỗi thân phận đã hóa thân làm nên một dáng hình, một ao ước một lối sống ông cha. Sự tích hòn Vọng Phu không chỉ gợi ra cảnh ly tán, sự đợi chờ mòn mỏi trong chiến tranh mà còn ca ngợi tình nghĩa thủy chung của những người vợ nhớ chồng. Cách gọi tên Hòn Trống, hòn Mái của dân gian qua cái nhìn của nhà thơ đã trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp phồn thực, cho sự son sắt vĩnh cửu của tình yêu đôi lứa. Những quả đồi thấp bao quanh núi Hy Cương nơi có đền thờ các vua Hùng qua cái nhìn của nhân dân đã trở thành chứng tích của đàn voi 99 con quây quần thuần phục, trở thành biểu tượng của lòng dân đồng thuận hướng về quốc gia thống nhất. Núi Bút, non Nghiên là hình ảnh Đất nước ngàn năm văn hiến với truyền thống hiếu học lâu đời, hình ảnh của một Đất Nước lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa. Như vậy, khi khái quát lại ta có thể nhận ra, nếu thiên nhiên kiến tạo nên thế núi hình sông, thì nhân dân, chính nhân dân mới là người kiến tạo linh hồn cho mỗi ngọn núi con sông. Xuất phát từ quan niệm hóa thân của nhà Phật, Nguyễn Khoa Điềm đã chứng minh nhân dân đã hóa thân vào đất nước. Đoạn thơ bắt đầu từ những huyền thoại của văn hóa dân gian nhưng lại bay bổng trên nền thế giới ấy nhờ cái nhìn mới mẻ độc đáo của phương thức tư duy hiện đại. Những núi sông không còn là cảnh sắc thiên nhiên thuần túy, những câu chuyện của văn hóa lịch sử không chỉ đơn thuần mang tính chất thiêng liêng, mà tất cả dưới cái nhìn của Nguyễn Khoa Điềm được nhìn nhận như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân, là minh chứng thiêng liêng xúc động cho sự đóng góp, hóa thân của nhân dân để làm ra Đất Nước. “Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…” Cái tài hoa và tinh tế trong ngòi bút của Nguyễn Khoa Điềm là vừa gợi được thời gian lịch sử, vừa gợi được không gian mênh mông. Dường như để từ đó nhà thơ muốn khẳng định, lặng lẽ bền bỉ cùng thời gian, trung hậu kiên cường trong không gian là vời vợi những cuộc đời của nhân dân. Đoạn thơ là niềm xúc động thiêng liêng mà Nguyễn Khoa Điềm gợi nên về sự đóng góp, hóa thân to lớn mà nhân dân góp vào muôn mặt văn hóa, lịch sử, tâm hồn dân tộc. Từ đó, giúp gắn kết tâm hồn con người muôn thế hệ. Các bài viết liên quan Đăng bởi THPT Trịnh Hoài Đức Chuyên mục Lớp 12, Ngữ Văn 12
phân tích đất nước đoạn 3