phân tích bài đất nước đoạn 2
Bạn đang xem: Phân tích đoạn 2 bài bình ngô đại cáo | Văn mẫu lớp 10: Phân tích đoạn 2 bài thơ Bình Ngô Đại Cáo (2 Dàn ý + 11 mẫu) Phân tích Bình Ngô Đại Cáo đoạn 2 (Sơ đồ tư duy) Phân tích đoạn 2 Đại cáo Bình ngô gồm dàn ý và 11 bài văn mẫu siêu hay đạt điểm cao
Đề bài:Phan tich doan 2 bai tho Hai chu nuoc nha. Anh/chị hãy phân tích đoạn 2 bài thơ " Hai chữ nước nhà" để thấy được tình yêu quê hương, đất nước trước cảnh lầm than của Nguyễn Phi Khanh. Mở bài: Phân tích đoạn 2 bài thơ "Hai chữ nước nhà"
Tuyển chọn những bài văn hay chủ đề Phân tích phần 2 đoạn trích Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm. Các bài văn mẫu được biên soạn, tổng hợp ngắn gọn, chi tiết, đầy đủ từ các bài viết hay, xuất sắc nhất của các bạn học sinh trên cả nước. Mời các em cùng
Đây là một bài phân tích với cấu trúc quy nạp. 3. Tóm tắt toàn diện. Điều này thực sự thể hiện tấm lòng của anh ấy đối với đất nước. b. Tương phản. Đoạn văn tương phản là đoạn văn có những ý tưởng tương phản, đối lập nhau: hình tượng thơ, phong cách
Wiki về Phân tích đoạn đầu của bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm (hay nhất) Bài mẫu số 2: Phân tích đoạn đầu của bài thơ Đất Nước Đọc đoạn thơ, ta không thế không chú ý đến những hình ảnh thơ đầy sức tưởng tưởng của tác giả về sự hiện hữu
Phân Tích Đất Nước Ngắn Gọn - Bài 1. Phân Tích Đất Nước Chi Tiết - Bài 2. Phân Tích Đất Nước Nguyễn Đình Thi Hay - Bài 3. Phân Tích Bài Thơ Đất Nước Nguyễn Đình Thi Đặc Sắc - Bài 4. Phân Tích Đất Nước Nguyễn Đình Thi Học Sinh Giỏi - Bài 5. Phân Tích Bài Thơ
Atm Online Lừa Đảo. Phân tích Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm để hiểu và cảm nhận rõ hơn cảm nghĩ mới mẻ của tác giả về đất nước qua những vẻ đẹp được phát hiện ở chiều sâu trên nhiều bình diện lịch sử, địa lí, văn hoá,... cùng với sự nhấn mạnh tư tưởng "Đất Nước của Nhân dân" qua giọng thơ trữ tình - chính luận sâu lắng, thiết Hướng dẫn phân tích bài Đất nước Nguyễn Khoa ĐiềmĐề bài Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Phân tích yêu cầu đề bài- Yêu cầu về nội dung phân tích nội dung, nghệ thuật của bài thơ Đất Phạm vi tư liệu, dẫn chứng các câu văn, từ ngữ, chi tiết, hình ảnh... tiêu biểu trong bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Phương pháp lập luận chính Phân Hệ thống luận điểm bài Đất nước- Luận điểm 1 Cảm nhận về đất nước từ nhiều phương diện lịch sử, văn hóa, chiều sâu của không gian, chiều dài của thời Luận điểm 2 Tư tưởng cốt lõi Đất nước của Nhân dân.>>> Tham khảo lại nội dung hướng dẫn soạn bài Đất nước - Nguyễn Khoa ĐiềmII. Lập dàn ý chi tiết phân tích bài Đất nước Nguyễn Khoa Điềm1. Mở bài phân tích Đất nước- Giới thiệu tác giả, tác phẩm+ Nguyễn Khoa Điềm thuộc lớp nhà thơ lớn lên trong những ngày hòa bình và trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, tiêu biểu cho thế hệ thơ trẻ những năm chống Mĩ.+ Bài thơ Đất nước trích trong trường ca Mặt đường khát vọng, là một bài thơ có chất triết lí sâu sắc, thể hiện tư tưởng “Đất nước của nhân dân”, thức tỉnh thanh niên, tuổi trẻ thành thị miền Nam xuống đường đấu khảo mẫu mở bàiNhà thơ người Nga Ê-xê-nhin từng viết"Nếu thiên thần đồng thanh lên tiếng gọi- Bỏ nước Nga lên sống ở thiên đường!Tôi sẽ nói - Thiên đường tôi chẳng lấyTrao cho tôi Tổ quốc yêu thương!"Hai tiếng Tổ quốc chẳng biết tự bao giờ luôn luôn trang trọng và thiêng liêng đến thế. Đề tài về quê hương đất nước luôn hấp dẫn và khơi gợi trong trái tim của biết bao nhà văn, nhà thơ. Thi ca tìm đến một nghệ sĩ tiêu biểu của thời kì"Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nướcMà lòng phơi phới dậy tương lai"Không ai khác đó là Nguyễn Khoa Điềm - thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Nguyễn Khoa Điềm khẳng định tên tuổi của mình trên diễn đàn thơ ca Việt Nam với phong cách thơ chính là trữ tình - chính luận với đoạn trích Đất Thân bài phân tích Đất nước* Luận điểm 1 Cảm nhận của tác giả về đất nước từ nhiều phương diện- Lí giải cội nguồn của đất nước phương diện lịch sử, văn hóa dân tộc+ “Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi” -> Đất nước đã có từ lâu đời+ “ngày xửa ngày xưa” -> gợi nhớ đến câu mở đầu các câu chuyện dân gian+ “miếng trầu” -> tục ăn trầu của người Việt và truyện cổ tích trầu cau+ “Tóc mẹ thì bới sau đầu” -> thói quen búi tóc của những người phụ nữ Việt Nam=> Đất nước gắn liền với truyền thống văn hóa, quá trình hình thành phong tục tập quán.+ “Thương nhau bằng gừng cay muối mặn” -> thói quen tâm lí, truyền thống yêu thương của dân tộc.+ “cái kèo cái cột thành tên”, “một nắng hai sương” -> Đất nước trưởng thành cùng quá trình lao động sản xuất.=> Đất nước bắt nguồn từ những điều bình dị, gần gũi trong đời sống của người Việt Nam từ xa xưa mà không hề xa xôi, trừu Cảm nhận về đất nước qua phương diện không gian và thời gian+ Về không gian địa lí"Đất / nước" hai yếu tố được tách riêng để suy tư một cách sâu sắc“nơi anh đến trường”, “nơi em tắm”, “nơi em đánh rơi... thương thầm” là nơi sinh sống của mỗi người sinh ra, lớn lên, đi học, trưởng thành và những những rung động đầu đời,...“nơi con chim phượng hoàng”, “nơi con cá ngư ông móng nước biển khơi” Là núi, sông, rừng, biển"là nơi dân mình đoàn tụ..." là không gian sinh tồn của cộng đồng dân tộc qua bao thế hệ + Về thời gianDài “đằng đẵng” từ xa xưa, gắn liền với truyền thuyết các dân tộc anh em cùng chung con Rồng, cháu Lạc và truyền thuyết dựng nước của vua Hùng cùng ngày giỗ hiện tại đất nước có trong tấm lòng mỗi con người, mỗi người đều thừa hưởng những giá trị của đất nước, khi có sự gắn kết giữa mỗi người đất nước sẽ nồng thắm, hài hòa, lớn lao. Đó là sự gắn kết giữa cái riêng và cái tương lai thế hệ trẻ sẽ “mang đất nước đi xa”, “đến những ngày mơ mộng”, đất nước sẽ trường tồn, bền vững.=> Đất nước được cảm nhận suốt chiều dài thời gian lịch sử từ quá khứ đến hiện tại và tương lai.* Luận điểm 2 Tư tưởng cốt lõi Đất nước của Nhân Thiên nhiên địa lí của đất nước không chỉ là sản phẩm của tạo hóa mà được hình thành từ phẩm chất và số phận của mỗi người, là một phần máu thịt, tâm hồn con người+ Nhờ tình nghĩa yêu thương, thủy chung mà có “hòn Vọng Phu”, “hòn Trống Mái”+ Nhờ tinh thần bất khuất, anh hùng trong quá trình dựng nước và giữ nước mà có những ao đầm, di tích lịch sử về quá trình dựng nước.+ Nhờ truyền thống hiếu học mà có những “núi Bút non Nghiên”- Nhân dân làm nên lịch sử 4000 năm+ Họ là những người con trai, con gái bình dị nhưng luôn thường trực tình yêu nước.+ Tác giả nhấn mạnh đến những con người vô danh làm nên lịch sử, khẳng định vai trò của mỗi cá nhân với lịch sử dân Nhân dân tạo ra và giữ gìn những giá trị vật chất, tinh thần cho đất nước văn hóa “truyền hạt lúa”, “truyền lửa”, “truyền giọng nói”, “gánh theo tên xã, tên làng”,... từ đó xây dựng nền móng phát triển đất nước lâu Tư tưởng cốt lõi, cảm hứng bao trùm cả đoạn trích “đất nước này là đất nước của nhân dân đất nước của ca dao thần thoại”, đất nước ấy thể hiện qua tâm hồn con người biết yêu thương, biết quý trọng trọng tình nghĩa, công sức và biết chiến đấu vì đất Kết bài phân tích Đất nước- Khái quát giá trị nội dung bài thơ Đất nước được cảm nhận ở nhiều phương diện, cái nhìn mới mẻ về đất nước với tư tưởng cốt lõi là tư tưởng đất nước của nhân dân. Đồng thời cũng nêu lên trách nhiệm của các thế hệ, đặc biệt là thế hệ trẻ với đất nước Đặc sắc nghệ thuật+ Sử dụng các chất liệu của văn hoá dân gian đa dạng, sáng tạo+ Ngôn ngữ giàu chất suy tư, triết luận sâu sắc+ Thể thơ tự do hiện đại linh hoạt+ Giọng thơ trữ tình - chính luận sâu lắng, thiết Nêu cảm nhận của em về bài thơ- Liên hệ trách nhiệm của thế hệ trẻ ngày nay với đất nước. Xem thêm hướng dẫn lập dàn ý phân tích bài Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm chi tiết và đầy đủ để không bỏ sót ý cho bài văn của Sơ đồ tư duy phân tích bài Đất Nước của Nguyễn Khoa ĐiềmSơ đồ tư duy phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm>>> Xem thêm Sơ đồ tư duy Đất nước - Nguyễn Khoa ĐiềmIII. Một số bài văn hayphân tích bài Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm1. Phân tích Đất nước bài phân tích chuyên sâuÔi Tổ quốc, ta yêu như máu thịtNhư mẹ cha ta, như vợ như chồngÔi Tổ quốc, nếu cần, ta chếtCho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông”Hai tiếng “Đất nước” nhỏ bé thôi, nhưng mỗi khi nó vang lên làm rạo rực biết bao trái tim của người thi nhân. Chính vì thế, “Đất Nước” đã đi vào thơ ca, trở thành cảm hứng bất tận, Đất Nước trong thơ Nguyễn Đình Thi là “những cánh đồng thơm mát, những ngả đường bát ngát, những dòng sông đỏ nặng phù sa” lớn lao và đẹp đẽ. Nhưng “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm là những hình ảnh gần gũi đến lạ, với những khía cạnh hết sức thân thuộc, bình dị thông qua bản trường ca mang tên “Mặt đường khát vọng” mà tiêu biểu là trích đoạn “Đất Nước” trong chương thứ năm. Với hình tượng trung tâm là đất nước, thông qua những vần thơ kết hợp giữa cảm xúc và suy nghĩ, trữ tình và chính luận, Nguyễn Khoa Điềm muốn thức tỉnh ý thưc, tinh thần dân tộc, tình cảm gắn bó với nhân dân, đất nước của thế hệ trẻ trong những năm kháng chiến đầy gian ca "Mặt đường khát vọng" được tác giả sáng tác và hoàn thành ở chiến khu Trị Thiên vào năm 1971. Tác phẩm dường như đã mang đến sự thức tỉnh cho tuổi trẻ miền Nam vùng đô thị tạm chiếm, thức tỉnh về sứ mệnh của thế hệ mình xuống đường đấu tranh để giải phóng đất nước. Đoạn trích “Đất nước” thuộc chương V của bản trường ca này. Đoạn trích là suy nghĩ của tác giả về đất nước được nhìn trên nhiều khía cạnh, với tư tưởng chủ đạo "đất nước của nhân dân". Thơ của Nguyễn Khoa Điềm giàu chất suy tư cảm xúc dồn nén, thể hiện tâm tư của một người trí thức, tích cực tham gia vào cuộc chiến đấu của nhân dân. Có lẽ vì vậy mà tư tưởng “đất nước của nhân dân" được nhà thơ gửi gắm một cách sâu sắc trong đứa con tinh thần của nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm là những hình ảnh gần gũi đến lạ, đó là ảnh tượng miếng trầu miệng bà nhai, là câu chuyện cổ tích hằng đêm mẹ thường kể, là búi tóc của mẹ... là những hình ảnh quá đỗi bình dị, thân quen thường nhật đến ta lớn lên Đất Nước đã có rồi Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc Tóc mẹ thì bới sau đầu Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn Cái kèo, cái cột thành tên Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng Đất Nước có từ ngày đó…Để lý giải cho cội nguồn đất nước, Nguyễn Khoa Điềm ngay từ khi mở đầu bài thơ đã đưa ra một lời khẳng định chắc chắnKhi ta lớn lên Đất Nước đã có rồiĐất nước có từ bao giờ không ai trong chúng ta biết cả, chỉ biết rằng từ lúc lọt lòng mẹ cho đến khi nhận thức được thế giới xung quanh thì đất nước đã và đang tồn tại. Mở đầu bài thơ đó là cách xưng hô “ta” vang lên một cách tự hào. Tác giả đã đại diện cho cả một thế hệ có ý thức, có trách nhiệm đi tìm hiểu cội nguồn của đất nước. Câu thơ được viết dưới hình thức khẳng định, kết hợp với cụm từ “đã có rồi” thể hiện niềm tự hào mãnh liệt về sự trường tồn của đất nước qua mấy nghìn năm lịch sử. Nguyễn Trãi cũng từng khẳng định trong “Bình Ngô đại cáo”“Như nước đại Việt ta từ trước Vốn xưng nền văn hiến đã lâu”Vì vậy khi ta lớn lên đất nước đã có rồi, hiện diện xung quanh chúng ta với những gì yêu thương nhất. Bằng việc khẳng định sự tồn tại lâu đời của đất nước, Nguyễn Khoa điềm đã mở ra không gian cổ tích, nơi có tiếng đồng vọng về một thời xa xưa bằng một lời kể "ngày xửa ngày xưa" trong câu chuyện cổ tích của mẹ“Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa… mẹ thường hay kể".Tác giả đã nhắc đến cụm từ chỉ thời gian “ngày xửa ngày xưa”. Đó là thời gian trừu tượng mơ hồ, không ai biết từ bao giờ chỉ biết nó đã rất xa xôi. Chắc chúng ta không còn xa lạ với cụm từ ấy nữa. Bởi cụm từ này là mở đầu của những câu chuyện cổ tích, vẽ lên trong tiềm thức của người đọc hình ảnh của cô Tấm bước ra từ quả thị, chàng Thạch Sanh tốt bụng cứu người, Thánh Gióng kiên cường bất khuất... những câu chuyện ấy đã trở thành một dòng nước mát tưới đẫm lên tuổi thơ của mỗi người. Đó là một buổi đêm thanh bình của làng quê, là tiếng võng kẽo kẹt, là âm thanh của tiếng quạt mo đong đưa, mà dịu dàng hơn là tiếng kể chuyện cổ tích của bà, của mẹ đã đưa con vào giấc ngủ. Những câu chuyện đó là luồng gió mát nuôi dưỡng tâm hồn mỗi con người. Chính vì thế nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ có viếtTôi yêu chuyện cổ nước tôi Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu sa Thương người rồi mới thương ta Yêu nhau dù mấy cách xa cũng gầnĐất nước là tiếng đồng vọng từ hàng nghìn năm lịch sử, nhưng để tồn tại qua ngần ấy năm thì đất nước cũng “bắt đầu”, cũng “lớn lên” kiên cường bất khuấtĐất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặcĐể khẳng định nền văn hóa lâu đời của đất nước tác giả đã sử dụng thành công nghệ thuật đối lập “bắt đầu” với “bây giờ”. “Bắt đầu” là quá khứ, “bây giờ” là hiện tại tạo nên mối quan hệ chặt chẽ, tạo nên khoảng thời gian liên tục tiếp nối nhằm khẳng định tập tục ăn trầu đã có từ xa xưa và vẫn duy trì cho đến ngày nay. “Miếng trầu là đầu câu chuyện” là biểu tượng của sự bắt đầu trọn vẹn, suôn sẻ, là vật không thể thiếu trong bất kỳ lễ hội đình đám, lễ nghi. “Đất nước” hiện lên là hình ảnh to lớn kỳ vĩ nhưng lại được cảm nhận từ một miếng trầu nhỏ bé bởi miếng trầu có vai trò ý nghĩa quan trọng trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam. Miếng trầu đã nhắc người đọc gợi nhớ đến một câu chuyện được coi là cổ xưa nhất của Việt Nam “Sự tích trầu cau”. Hơn nữa “miếng trầu” xuất hiện trong những dịp lễ tết trọng đại trong thờ cúng tổ tiên. Nó cũng là sợi tơ để kết nối tình yêu đôi lứa“Miếng trầu ăn ngọt như đường Đã ăn lấy quả thì thương lấy người”Tác giả đã cảm nhận đất nước từ một hình ảnh nhỏ bé nhưng nó là hiện thân của phong tục đẹp đẽ đã có từ lâu đời của con người Việt Nam. Một đất nước chỉ thực sự vững bền khi trải qua quá trình dựng nước và giữ nước, trải qua quá trình chiến đấu gian lao, vất vả. Với hình tượng cây tre gắn bó lâu đời với người dân Việt Nam từ ngàn xưaĐất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặcTác giả đã nói đến sự trưởng thành và phát triển của đất nước trải dài 4000 năm lịch sử qua nghệ thuật ẩn dụ đất nước “lớn lên”. Tác giả đã mượn hình tượng của cây tre để nhắc nhở cho người đọc về một truyền thống vô cùng quen thuộc đối với người dân Việt. Trong đời sống sinh hoạt, xe làm đồ dùng gần gũi, khi có chiến tranh cây tre chất phác giản dị ấy là biểu tượng cho tinh thần kiên cường bất khuất của dân tộc ta. Vì thế tre được ca ngợi tre xung phong vào xe tăng đại bác, tre giữ làng giữ nước giữ mãi nhà tranh, giữ đồng lúa chín,... tre anh hùng lao động! tre anh hùng chiến đấu! Hơn nữa hình tượng cây tre đã nhắc nhớ cho người đọc về truyền thuyết Thánh Gióng đánh đuổi giặc Ân, về quá trình bảo vệ tổ quốc. Đó cũng là truyền thống ngàn đời của dân tộc yêu nước chống ngoại xâm. Cây tre là nhân chứng lịch sử cho biết bao trận đánh oai hùng, cho biết bao máu, nước mắt và mồ hôi của dân tộc ta trên chặng đường gìn giữ độc nước của Nguyễn Khoa điểm hiện lên với muôn vàn khía cạnh của cuộc sống đời thường. Khép lại quá trình chiến đấu gian lao của dân tộc, tác giả tiếp tục đưa người đọc tiếp cận với những hình ảnh vô cùng giản dịTóc mẹ thì bới sau đầu Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặnTác giả đã đề cập đến một tập tục búi tóc sau đầu của người phụ nữ Việt Nam cho gọn gàng để tiện cho lao động sản xuất, lâu dần trở thành một nét đẹp thanh lịch dịu dàng của người phụ nữ. Hình ảnh búi tóc gọn gàng sau gáy mẹ những buổi bẻ bắp, làm nương, những ngày xay gạo nuôi quân, là hình tượng của người phụ nữ, là hậu phương vững chắc cho gia đình. Trong ca dao cũng từng xuất hiện hình ảnh này“Tóc ngang lưng vừa chừng em bới Để chi dài cho bối rối dạ anh”Và đó là lý do vì sao mà tình cảm vợ chồng của những con người sống trên mảnh đất ấy lạnh nồng nàn chung thủy đến vậyCha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặnBằng câu ca dao thân thương “gừng cay muối mặn”, cuộc sống gia đình của những con người sống trong đất nước hiện lên thật đẹp đẽ. Đó là gia vị quen thuộc trong bữa ăn của người Việt. Nó còn là vị thuốc chữa bệnh cho người bình dân. Thành ngữ ấy được vận dụng một cách đặc sắc trong câu thơ vừa nhẹ nhàng, vừa thấm thía. Muối tất nhiên phải mặn, gừng chắc chắn cay, chúng đều là những sự thật hiển nhiên, những chân lý không thể thay đổi được, cũng như tình cảm thủy chung trời bể của đôi ta, không biết đến khi nào phai nhạt. Tác giả đã lấy vị mặn của muối, vị cay của gừng để nói đến tình cảm thủy chung son sắt tình nghĩa vợ chồng. Đó cũng chính là truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Chính vì thế, hình ảnh ấy không còn xa lạ trong ca dao Việt Nam“Muối ba năm muối đang còn mặn Gừng chín tháng gừng hẵng còn cay Đôi ta nghĩa nặng tình dày Có xa nhau đi nữa thì ba vạn sáu ngàn ngày mới xa”Đóng lại trang thơ về những tình cảm thuỷ chung mặn nồng, Nguyễn Khoa Điềm đã mang độc giả tiếp cận với phong tục đặt tên và cuộc sống lao động sản xuất của con người nơi đất nướcCái kèo, cái cột thành tên Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng Đất Nước có từ ngày đó…Với quan niệm đặt tên con không bao giờ đẹp sẽ bảo vệ chúng khỏi sự hủy phá của ma quỷ, những người làm cha làm mẹ đã mượn hình tượng cái kèo cái cột đầy thân quen. Hơn hết người Việt có phong tục tập quán đặt tên cho con bằng những sự vật cần gũi gắn bó trong đời sống hằng ngày. Cái kèo cái cột là biểu tượng cho sự bền vững của mái ấm gia đình mà gia đình ấy lại là những phần tử nhỏ của xã hội. Theo người Việt xưa họ dùng cái kèo cái cột giằng vào nhau giữ cho ngôi nhà thêm bền vậy, sự phát triển của đất nước luôn gắn liền với sự phát triển quá trình lao động sản xuất. Với nền văn minh lúa nước lâu đời, những người dân nơi đây “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”, một nắng hai sương trải qua xay, giã, giần, sàng mới ra hạt gạo trắng ngần thơm ngátHạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàngQua nghệ thuật liệt kê một loạt các động từ xay, giã, giần, sàng đã diễn tả được cụ thể quá trình làm ra hạt gạo. Hòa trong âm điệu dồn dập mạnh mẽ của quá trình lao động sản xuất là tiếng cối vang lên đều đặn, là những giọt mồ hôi rơi trên hạt gạo trắng ngần. Thành ngữ “một nắng hai sương” chỉ sự khó khăn vất vả. Câu thơ đã diễn tả một cách sinh động sự khó khăn, vất vả của người nông dân, khi làm ra những hạt cơm ngọt bùi. Thấm trong từng hạt gạo nhỏ bé là vị mặn của mồ hôi, vị cay của sự nặng nhọc và vất vả. Chính vì thế câu thơ phảng phất lời nhắn nhủ của cha ông xưa“Ai ơi bưng bát cơm đầy Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”Câu thơ cuối vang lên ngắn gọn súc tích, kết luận và khẳng định một cách chắc chắn đất nước đã có từ lâu đờiĐất Nước có từ ngày đó…Khổ thơ được viết theo cấu trúc tổng phân hợp đã làm nên chất trữ tình chính luận trong thơ của Nguyễn Khoa Nguyễn Khoa Điềm giàu chất trữ tình chính luận. Với lối thơ vừa lãng mạn, vừa suy tư ấy, tác giả khi cảm nhận về bản chất của đất nước cũng đem đến cho ta nhiều cảm xúc mới“Đất là nơi anh đến trường Nước là nơi em tắm Đất Nước là nơi ta hò hẹn Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”Tác giả đã sử dụng điệp cấu trúc theo khoảng định nghĩa đất nước là, nước là, đất nước là. Từ đó giúp tác giả trình bày quan điểm cách nhìn cảm xúc mới mẻ về “đất nước”. Hơn thế nữa đất nước được sử dụng chiết tự từ độc đáo, tách “đất nước" ra làm hai thành tố để định nghĩa rồi sau đó gộp lại. Đất nước là nước, là đất, là muôn hình vạn trạng của đời sống nhân dân, và rồi lại hài hòa trong một chỉnh thể thống nhất là tổ quốc, dân tộc. “Đất là nơi anh đến trường” đó là không gian quen thuộc của anh, là nơi hằng ngày anh đến trường để tiếp thu tri thức làm chủ cuộc sống gắn bó với những kỷ niệm thời ấu thơ. “Nước” là không gian riêng tư là dòng sông em tắm mát, gợi lên hình ảnh thân thuộc đẹp đẽ. Qua cách diễn giải ấy khiến cho người đọc hình dung cụ thể đất nước là nơi ta lớn lên, sinh hoạt và học tập. Nhưng khi tách ra, đất nước lại gắn bó với những kỷ niệm riêng tư của mỗi con người. Còn khi gộp lại đất nước là không gian chung của anh và em nơi ta hò hẹn, nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm. Đất nước hòa nhập là một trở thành không gian hò hẹn là nơi chắp cánh cho tình yêu đôi lứa. Câu thơ ấy đã phảng phất trong ca dao của cha ông xưa“Khăn thương nhớ ai Khăn rơi xuống đất Khăn thương nhớ ai Khăn vắt lên vai”Hay ý thơ của Nguyễn Khoa Điềm có sự gặp gỡ với những cảm nhận đầy sâu sắc của nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn"Nếu anh đi với người yêu Chỉ xin anh nhớ một điều nhỏ thôi Con đường ta đã dạo chơi Xin đừng đi với một người khác em Hàng cây nay đã lớn lên Vươn cành để lá êm đềm chạm nhau Hai ta ai biết vì đâu Hai con đường sẽ xa nhau xa hoài Nếu cùng người khác dạo chơi Xin anh hãy tránh nẻo vui ban đầu" .Con đườngVẫn mạch cảm xúc thiết tha, nhà thơ say sưa lý giải"Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc” Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi"Câu thơ đã đưa người đọc đi theo mạch cảm xúc để đến với những không gian đất nước thân thương. Đó là hình ảnh của con chim phượng hoàng, hình ảnh con cá ngư ông, hình ảnh hòn núi bạc, nước biển khơi. Tất cả đều mang âm hưởng dân gian gợi ra một đất nước mênh mông, giàu đẹp. Đất nước không chỉ được đo bằng chiều dài lãnh thổ mà còn được đo bằng cả khúc ca ngọt ngào, bằng sự ngân vang của câu hát. Đất nước ta là đất của rừng vàng, là nước của biển bạc. Từ đó tác giả đã cảm nhận không gian địa lý của đất nước là rừng vàng biển bạc, là núi sông bờ cõi rộng lớn hùng vĩ giàu có. Bên cạnh đó còn là niềm tự hào sâu sắc của nhà thơ về non sông gấm vóc quê hương, thật trù phú, tươi đẹp, yên ả, thanh trù phú giàu đẹp đó gắn liền với thời gian đằng đẵngThời gian đằng đẵng Không gian mênh mông Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụTác giả đã sử dụng thành công hai từ láy “đằng đẵng”, “mênh mông”. “ Đằng đẵng” là chỉ thời gian dài vô tận , liên tục, bền bỉ, mà nhân dân ta đã đổ bao mồ hôi, xương máu để xây dựng, bảo vệ bờ cõi đất nước thành dải đất hình chữ S cho nhân dân mình đoàn tụ trong yêu thương tự hào. Còn “mênh mông” gợi lên một không gian bao la rộng lớn trù phú của rừng vàng biển bạc, của núi non bờ cõi. Từ đó tác giả đã cảm nhận đất nước qua chiều dài thời gian và chiều rộng không gian. Không chỉ vậy đất nước còn là nơi dân mình đoàn tụ. Cách gọi “dân mình” vang lên thật tự nhiên nhưng không kém phần thân thương, trìu mến yêu quý và tự hào. Chính vì thế đất nước là không gian sinh tồn của biết bao cộng đồng thế hệ người dân Việt"Đất là nơi Chim về Nước là nơi Rồng ở Lạc Long Quân và Âu Cơ Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng".Ở đoạn thơ này những hình tượng quen thuộc trong thần thoại, truyền thuyết như chim, rồng, Lạc long Quân, Âu Cơ, bọc trứng cùng tụ về trong một trường liên tưởng của nhà thơ. Sự hội tụ ấy làm bật lên ý thơ có tầm khái quát cao tác giả đã nhắc đến truyền thuyết, nguồn gốc của con người Việt Nam là được mẹ Âu Cơ đẻ ra bọc trăm trứng nở ra trăm con. Năm mươi con theo cha xuống biển làm nghề chài lưới, năm mươi con theo mẹ làm nghề trồng rau, nuôi tằm. Mặc dù ở cách xa nhau nhưng vẫn gắn bó làm tròn bổn phận với non sông đất nước. Đó là một nét đẹp tạo nên bản sắc văn hóa của con người Việt. Để từ đó tất cả các dân tộc trong đất nước đều là anh em trong mối quan hệ ruột thịt. Đọc khổ thơ chúng ta thấm thía một lời nhắn nhủ về tình non sông đất nước, về cội nguồn truyền thống của ông cha nước qua cách cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm không khô khan, mà tươi rói cảm xúc. Bởi đất nước không chỉ là sự thống nhất của các yếu tố lịch sử, địa lý, văn hóa, phong tục, mà đất nước gắn liền với đời sống, số phận của từng cá nhân ở mọi phương diện, là sự tiếp nối của các thế hệNhững ai đã khuất Những ai bây giờ Yêu nhau và sinh con đẻ cái Gánh vác phần người đi trước để lại Dặn dò con cháu chuyện mai sauQua cách sử dụng điệp ngữ kết hợp điệp cấu trúc nghệ thuật đối những “ai đã khuất” với “những ai bây giờ” để khẳng định những thế hệ nối tiếp nhau. Tác giả đã liệt kê một loạt những động từ yêu nhau, sinh con đẻ cái, gánh vác, dặn dò,.... Từ đó nhà thơ đã cụ thể hóa những trách nhiệm, nhiệm vụ to lớn thiêng liêng với đất nước. Đặc biệt trách nhiệm của thế hệ hôm nay vô cùng nặng nề nhưng vinh quang. Chúng ta vừa phải gánh vác những công việc nhọc nhằn, nặng nề của cha ông để lại, vừa phải dặn dò con cháu chuyện mai sau một cách ân cần, chu đáo để có thế hệ sẽ tiếp tục đưa đất nước đi xa đến một chân trời hòa bình, hạnh phúc, ấm no, giàu mạnhHàng năm ăn đâu làm đâu Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ sự mưu sinh, mỗi người có thể làm ăn lập nghiệp ở bất cứ đâu. Nhưng trong sâu thẳm tâm hồn của mỗi chúng ta đều mang dòng máu Việt. Trong những giờ khắc thiêng liêng nhất, niềm tự hào gắn bó với quê hương đất nước lại trỗi dậy nồng nàn. Từ “hằng năm” mở đầu hai câu thơ đã khẳng định thời gian lặp lại, liên tiếp. Câu thơ phảng phất lời dặn dò của cha ông ta“Dù ai đi ngược về xuôi Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba”Hai chữ cuối đầu trong câu thơ đong đầy sự thành kính, thiêng liêng, đem đến cảm nhận dường như mọi thế hệ người dân Việt, từ những ai đã khuất đến những ai bây giờ còn sống và làm việc đều im lặng cúi đầu hướng về nguồn cội tổ tiên. Đó là truyền thống uống nước nhớ nguồn của dân tộc ta, một truyền thống tốt đẹp quý sự gắn bó sâu sắc của nhân dân với đất nước, nhà thơ đã phát hiện một chân lý giản dị mà sâu sắc đất nước là sự thống nhất của nhiều yếu tố, cái riêng và cái chung, cá nhân và cộng đồng, cái hằng ngày và cái vĩnh hằng. Đất nước luôn có trong mỗi con người, là trách nhiệm của cả công dân đất nước"Trong anh và em hôm nay Đều có một phần Đất Nước"Nhà thơ Sóng Hồng từng nhận xét “Thơ là tình cảm, lý trí kết hợp một cách nhuần nhuyễn và có nghệ thuật. Tình cảm ấy và lý trí ấy được diễn đạt bằng những hình tượng đẹp đẽ qua những lời thơ trong sáng vang lên nhạc điệu khác thường”. Qua những dòng thơ trăn trở của Nguyễn Khoa Điềm, ta thấy ở đó không chỉ đơn thuần là những vần thơ mà còn là tư tưởng, cảm xúc, tình cảm của tác giả. Tác giả đã gửi gắm tâm tư của mình vào đất nước, “đất nước trong anh và em hôm nay”. Đặc biệt hơn đó là cách xưng hô “anh em” ngọt ngào tha thiết với một giọng thơ thủ thỉ, tâm tình. “Bên kia sông Đuống" của Hoàng Cầm cũng đã sáng tạo ra một đối tượng như vậy để giãi bày khi nghe tin quê hương kinh Bắc bị tàn phá“Em ơi buồn làm chi Anh đưa em về sông Đuống”Vì sao trong anh và em lại có một phần đất nước? Đất nước có trong mỗi con người, sự gắn bó không thể tách rời. Bởi đất nước là nơi ta sinh ra, là nơi ta lớn lên gắn bó với những kỷ niệm tuổi ấu thơ. Đất nước nuôi dưỡng tâm hồn mỗi con người. Vì vậy đất nước hiện hữu trong mỗi cá nhân. Chúng ta cũng đã gặp tư tưởng ấy trong tác phẩm “Quê hương” của Giang Nam“Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất Có một phần máu thịt của em tôi”Tác giả đã sử dụng thành công nghệ thuật điệp cấu trúc theo kiểu đối xứng “khi... Đất nước...”. Từ đó giúp tác giả có thể bộc lộ được sự cảm nhận về đất nước trong mối quan hệ toàn diện khác nhau, kết hợp với động từ “cầm tay” được điệp lại hai lần. Khi hai người cầm tay nhau là lúc thấu hiểu được nhau, yêu thương, san sẻ mọi khó khăn ngọt bùi với nhau. Nói cách khác khi anh và em cầm tay là đó có sự giao thoa cảm xúc, giao thoa giữa tình yêu đất nước sự hai trái tim. Đó là mối quan hệ cá nhân gắn bó yêu thương. Còn động từ cầm tay xuất hiện lần thứ hai thể hiện một mối quan hệ cộng đồng dân tộc đó là sự đoàn kết thân thiết. Bên cạnh đó tác giả còn sử dụng tính từ “hài hòa nồng thắm” và “vẹn tròn to lớn”, vừa thể hiện được tình cảm riêng tư lại vừa thể hiện được tình cảm lớn lao tình cảm của đất nước của dân tộc qua nghệ thuật tăng những câu thơ trên tác giả tiếp tục khám phá những điều mới mẻ về đất nước, tác giả chỉ ra mối quan hệ giữa cá nhân với đất nước khi vòng tay rộng mở, đất nước không chỉ là sự kết nối giữa cá nhân với cá nhân mà là sự kết nối giữa cộng đồng dân tộc. Từ thế giới của anh và em nhỏ bé họ đã vượt qua để đến với cái ta chung với tình cảm hữu ái, đoàn khi nêu nhận thức về trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với đất nước, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện niềm tin trọn vẹn của mình vào thế hệ tương lai, những mầm non của đất nước. Ước mơ về thế hệ sau, thế hệ tương lai sẽ mang đất nước đi xa, kế tục phát huy tinh hoa văn hóa nước nhà là điều bất cứ ai cũng mong muốnMai này con ta lớn lên Con sẽ mang đất nước đi xa Đến những tháng ngày mơ mộng“Mai này” là thời gian của tương lai, “con ta” là con của tác giả hay đó là thế hệ mai sau, thế hệ tương lai. Chỉ hai từ đó thôi đó thể hiện được tình cảm yêu thương trìu mến, hy vọng và tin cậy vào thế hệ trẻ. Còn “lớn lên” là sự phát triển là sự trưởng thành cả về mặt thể chất tư tưởng và suy nghĩ. Khi chúng lớn chúng sẽ “mang đất nước đi xa”. Động từ “mang” kết hợp với “đất nước” khiến cho người đọc hình dung, “Đất nước” không chỉ là khái niệm trừu tượng mơ hồ, mà đất nước trở nên hữu hình gắn bó với bổn phận, trách nhiệm của mỗi con người. Nhưng đất nước ấy còn đi xa hơn nữa. Đó là ẩn dụ sự phát triển của đất nước ra thế giới ra năm châu bốn bể, để có thể sánh vai với các cường quốc. Có lẽ cụm từ “những tháng ngày mơ mộng” được đặt ở cuối câu, thể hiện những ngày tháng tươi đẹp hòa bình, hạnh phúc. Chắc tác giả đang nhắc nhở về trách nhiệm của thế hệ mai sau phải phát triển đất nước, đồng thời đó là niềm tin vào tương lai tươi sáng của cả một dân ra, đó cũng là lời nhắc nhở về ý thức trách nhiệm của mỗi con người đối với đất nướcEm ơi em Đất Nước là máu xương của mình Phải biết gắn bó san sẻ Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở Làm nên Đất Nước muôn đời…Giọng thơ tha thiết, sâu lắng với cách gọi “em ơi em” như một hình thức tâm tình của đôi lứa yêu nhau tạo những lời thơ bay bổng, thấm thía mà cũng chính là lời tự nhủ, lời tự dặn mình. Nguyễn Khoa Điềm tạo thơ hóa những vấn đề chính trị, khiến cho tính chính luận không hề khô khan, không còn mang màu sắc giáo huấn mà là lời tự nhủ, tự dặn chân thành xuất phát từ trái tim. Tác giả lại đưa ra những cảm nhận sâu sắc, mới mẻ về đất nước trong câu thơ “đất nước là máu xương của mình”. Có những tượng đài bất tử về đất nước xuất hiện trong thi ca nhưng khi nói đất nước về đời người thì có lẽ chỉ có Nguyễn Khoa Điềm. “Máu, xương” là hai thành tố không thể thiếu trong sự sống của mỗi con người. Như vậy đất nước gắn bó máu thịt, đất nước có vai trò ý nghĩa quan trọng đối với mỗi cá nhân. Bởi như Chế Lan Viên đã từng viếtÔi tổ quốc ta yêu như máu thịt Như cha mẹ ta như vợ như chồngTiếp đến tác giả đã nhấn mạnh khắc sâu và ý thức và trọng trách của mỗi con người qua điệp cấu trúc câu cầu khiến kết hợp với điệp ngữ “phải biết”. Tác giả đã liệt kê một loạt các động từ mạnh theo chiều tăng tiến gắn bó, san sẻ, hóa thân. “Gắn bó” là chúng ta phải dành cho đất nước một tình yêu tha thiết sâu nặng và chung thủy. Còn “san sẻ” là mỗi người phải biết chia sẻ gánh vác trách nhiệm với sự khó khăn của đất nước. Phần cuối cùng “hóa thân” là mức độ cao nhất, sẵn sàng hy sinh, dâng hiến tuổi xuân để làm nên mùa xuân của đất nước. Đúng như trong lời ca của Trương Quốc Khánh“Là người tôi nguyện chết cho quê hương”Từ đó lời thơ như từng đợt sóng xô vào lòng người đọc, từng đợt từng đợt, để khắc sâu trách nhiệm của mỗi cá nhân với đất nước. Tác giả đã viết bằng giọng điệu trữ tình tha thiết khiến cho lời thơ thấm thía đi vào lòng người đọc không bị khô khan, cứng nhắc. Từ đó nhà thơ nhắc nhở mỗi con người phải biết góp sức mình để làm nên sự trường tồn của đất nước. Đặt trong hoàn cảnh khi bài thơ ra đời, đoạn thơ có tác dụng to lớn trong việc cổ vũ, động viên khơi dậy tinh thần trách nhiệm, đặc biệt là thế hệ trẻ cùng cống hiến cho đất nước. Tới đây, ta chợt nhớ đến tình cảm của Xuân Diệu, một tình yêu tổ quốc đến tột cùng tồn tại nơi "dòng huyết chảy"Tình yêu tổ quốc là đỉnh núi bờ sông Đến lúc tột cùng là dòng huyết chảyNguyễn Khoa Điềm đã có một sự phát hiện và đóng góp mới mẻ vào tư tưởng đất nước của nhân dân tư tưởng đất nước của nhân dân trên bình diện địa lý không gian. Nhà thơ đã gửi ánh nhìn của mình vào tất cả các danh lam thắng cảnh của đất nước, mà mỗi địa danh đều có những câu chuyện riêng, những tâm hồn riêngNhững người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên. Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…Tác giả đã sử dụng nghệ thuật liệt kê một loạt các địa danh núi Vọng Phu, hòn trống mái, đất tổ Hùng Vương, ông đốc, ông Trang, bà đen, ba điểm,. Tất cả những địa danh ấy được sắp xếp từ Bắc xuống Nam, được liệt kê một cách dày đặc. Tất cả đều là những địa danh nổi tiếng, những cảnh đẹp, những kỳ quan thiên nhiên của đất nước. Từ đó tác giả đã vẽ lên một bức tranh khiến cho đoạn thơ như một bản đồ địa lý giúp người đọc hình dung được sự rộng lớn, giàu đẹp của đất nước. Từ đó thể hiện niềm tự hào của tác giả, đặt trong bối cảnh đế quốc Mỹ đang tìm cách xâm lược và chia rẽ nước ta, đoạn thơ còn có ý nghĩa khẳng định về sự toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc. Không chỉ thế tác giả còn sử dụng điệp từ “góp” đến bảy lần, nhằm nhấn mạnh được vai trò tầm quan trọng của người dân bình thường trong việc hình thành nên dáng núi hình song, diện mạo hình hài của đất nước. Có lẽ thông thường các danh lam thắng cảnh là do bàn tay của kiến tạo tự nhiên. Nhưng trong thơ của Nguyễn Khoa Điềm, từ thời ông cha ta đã phủ lên những danh lam thắng cảnh ấy, những câu chuyện huyền thoại. Chính cuộc đời số phận của người dân đã tạo nên danh lam thắng cảnh, và tư tưởng ấy được phát triển một cách đọc viết trong thơ của Nguyễn Khoa ĐiềmNhững người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống MáiNúi Vọng Phu, hòn trống mái không chỉ là những địa danh góp nét đẹp cho dáng núi, hình sông mà chúng tự bao giờ đã hóa thành những câu chuyện trong thơ Nguyễn Khoa Điềm hình ảnh người vợ chờ chồng đến hóa đá tạo thành núi Vọng Phu ở Lạng Sơn, câu chuyện những cặp vợ chồng yêu nhau làm nên hòn trống mái, làm nên đất nước nồng thắm, nhân tình. Đó là truyền thống thủy chung tình nghĩa son sắt vợ thơ Nguyễn Khoa Điềm, đất nước còn hiện lên cùng những truyền thuyết những hình ảnh của người anh hùng Việt NamGót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng VươngHai câu thơ đã giúp chúng ta liên tưởng đến khí phách của con người Việt Nam gót ngựa Thánh Gióng, chín mươi chín con voi. Hình ảnh thấm đậm tinh thần yêu nước đã được tác giả sử dụng kết hợp với các động từ đi qua, để lại, góp mình tạo nên một nét tự hào rất riêng, rất thiêng liêng, sông núi, về khí phách, và sức mạnh đậm chất Việt Nam và tự hào cả và truyền thống văn hóa. Đó là truyền thuyết Thánh Gióng nhổ tre đánh đuổi giặc Ân, gót ngựa sắt để lại ao đầm. Đây là truyền thống yêu nước chống ngoại xâm từ hàng ngàn đời nay của dân tộc Việt Nam. Bên cạnh đó, câu thơ thứ hai đã gọi lên một huyền thoại xung quanh ngọn núi Hy Cương nơi có các đền thờ vua hùng có chín chín ngọn đồi. Đó là chín mươi chín con voi quây quần chầu mình về đất tổ. Đây là truyền thống uống nước nhớ nguồn, luôn hướng về nguồn cội với một tấm lòng thành kính thiêng đến tác giả đã nhắc về một truyền thống văn hóa của dân tộc Việt NamNhững con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên. Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà ĐiểmNguyễn Khoa điềm đã khéo léo nhắc lại thời sự tích của tháp Bút, non Nghiên, nhắc lại người học cho nghèo nên núi Bút, non Nghiên để làm rõ truyền thống hiếu học truyền thống văn hiến lâu đời của dân tộc. Đó là biểu tượng của vẻ đẹp trí tuệ, đạo đức và cả đời sống tâm linh của con người Việt Nam. Con cóc con gà những con vật tưởng chừng như nhỏ bé, bình thường này cũng góp một phần hồn cho vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của đất nước. Và từ bao giờ trên đất nước ta mọc lên vô vàn ngọn núi mang tên bà Đen, bà Điểm, ông Trang, ông Đốc hay mang tên của những người dân khác nữa đó là những con người hóa thân tạo nên đất nước hôm nayVà ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…Đoạn thơ được viết theo kết cấu quy nạp làm nổi bật chất trữ tình trong thơ chính luận của Nguyễn Khoa Điềm. Câu thơ thứ nhất dường như khái quát về mặt không gian đó là tất cả mọi nơi trên đất nước. Dù đi về đâu ta cũng có thể thấy được những cuộc đời đã hóa núi sông, mỗi nơi đều là một địa chỉ văn hóa được tạo nên bởi nhân dân. Qua nghệ thuật liệt kê kết hợp với điệp từ một tác giả đã khẳng định tất cả mọi nơi đều có sự hiện hữu của nhân dân. Tiếp đến thán từ “ôi” đã vang lên thể hiện một tình cảm trào dâng mãnh liệt không thể kìm nén được mà bật lên thành lời. Bởi có lẽ đây là niềm tự hào khi đất nước đã trải qua một thời gian lịch sử dân tộc vô cùng dài bốn ngàn năm“Hỡi sông Hồng khúc hát bốn ngàn năm Tổ Quốc bao giờ đẹp thế này chăng”Có lẽ tác giả đã khẳng định chính cuộc đời, số phận, tính cách, tâm hồn của nhân dân đã làm nên đất nước. Đó là sự hóa thân là sự góp hồn cho những địa danh đưa chúng vào đời sống dân tộc tự bao khi bày tỏ những suy tư về quan điểm đất nước của nhân dân thì nhà thơ tiếp tục nhìn vào chiều dài lịch sử trong bốn năm dựng nước và giữ nước của nhân dân ta đầy niềm tự hào, hạnh phúc. Ở chín câu thơ tiếp theo, nhà thơ nhấn mạnh từ những con người vô danh, không tên, không tuổi nhưng đã tạo dựng nên đất nước bình yên như hôm nayEm ơi em Hãy nhìn rất xa Vào bốn ngàn năm Đất Nước Năm tháng nào cũng người người lớp lớp Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta Cần cù làm lụng Khi có giặc người con trai ra trận Người con gái trở về nuôi cái cùng con Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh Nhiều người đã trở thành anh hùng Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ Những em biết không Có biết bao người con gái, con trai Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi Họ đã sống và chết Giản dị và bình tâm Không ai nhớ mặt đặt tên Nhưng họ đã làm ra Đất NướcMở đầu đoạn trích, tác giả đã sử dụng loại gọi đầy tâm tình “em ơi em” như đi vào cảm xúc của tất cả mọi người. Em là nhân vật trữ tình không xác định, có thể hiểu đây là sự phân thân của tác giả thể độc thoại với chính mình. Nhà thơ đang nhìn vào lịch sử bốn năm và tự hào về những cô gái, chàng trai xung phong ra mặt trận mặt thời nào cũng có. Năm tháng nào cũng người người “lớp lớp” ấy là minh chứng cho những cũng hiến trực tiếp của biết bao thế hệ đi trước, những con người bình dị, vô danh, những tuổi thanh xuân kiên cường, anh từ chỉ thời gian không xác định "năm tháng nào" kết hợp với từ "lớp lớp" chỉ số nhiều, các danh từ chung "con gái, con trai" tạo nên những vần thơ bình dị nhưng giàu sức gợi cảm. Nhân dân các thế hệ từ lớp này đến lớp khác đã nối tiếp nhau đứng lên giữ gìn quê hương, xứ sở bằng mồ hôi, công sức và xương máu của mìnhKhi có giặc người con trai ra trận Người con gái trở về nuôi cái cùng con Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánhCâu thơ ấy khiến chúng ta liên tưởng đến hình ảnh của những người phụ nữ kiên cường, dũng cảm thời kháng chiến. Đó là Hai bà Trưng đã vùng lên đập tan chính quyền đô hộ của nhà Đông Hán, hay bà Triệu đã đánh đuổi quân Ngô giành lại giang sơn,... đó cũng có thể là chị Võ Thị Sáu - nữ anh hùng lực lượng vũ trang trẻ nhất,… Nhưng khi thời bình, họ lại là những người phụ nữ âm thầm, lặng lẽ làm hậu phương vững chắc cho chiến sĩ ngoài mặt trận. Nói về lịch sử bốn nghìn năm của đất nước, nhà thơ không nhắc lại các triều đại, các anh hùng nổi tiếng mà tập trung nhấn mạnh vai trò của những con người vô danh“Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi Họ đã sống và chết Giản dị và bình tâm Không ai nhớ mặt đặt tên Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.”Họ đã làm ra Đất Nước bằng chính những công việc hằng ngày và trong suốt cuộc đời họ“Nhưng họ đã làm ra Đất Nước Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm Có nội thù thì vùng lên đánh bại”Trước hết, nhân dân là người tạo nên những giá trị văn minh vật chất cho đất nước "Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng". Trong hạt lúa bé nhỏ ấy có mồ hôi công sức lao động của những người nông dân vất vả dãi dầu một nắng hai sương, có sự kết tinh của Đất và Nước, của bão giông, nắng lửa. Không chỉ thế, trong hạt gạo nhỏ bé ấy còn là mồ hôi, nước mắt và cả những sự hi sinh thầm lặng cho lao động. Đất Nước ấy hiện lên là đất nước của lao động sản xuất, của những con người cần cù, chịu khó, của những cánh đồng lúa bao la, rộng lớn "Việt Nam đất nước ta ơi/ Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn/Cánh cò bay lả dập dờn/ Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều". Nhân dân đã giữ và truyền cho ta những nét đẹp trong lao động và văn hóa như thế. Hơn hết họ còn “truyền lửa qua mỗi ngôi nhà”, “ từ hòn than qua con cúi”. Họ chính là những người gìn giữ ngọn lửa nồng đượm hơi ấm của tình làng nghĩa xóm. Câu thơ ấy dường như chứa đầy sự suy ngẫm, sự trải nghiệm về vai trò của nhân dân ẩn sâu trong từng câu chữ. Tất cả đều làm nên một truyền thống quý báu của dân tộc. Đó là truyền thống hàng xóm tối lửa tắt đèn có nhau được hình thành từ ngàn đời dân còn “truyền giọng điệu cho con mình tập nói”. Theo dòng chảy không ngừng của thời gian, ông bà, cha mẹ đã truyền cho con tiếng nói, ngôn ngữ dân tộc. Bởi ngôn ngữ là một tài sản vô giá của một quốc gia. Nó là vật báu, là tiếng nói tâm hồn, là kết quả của quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là kết quả của quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước Trong một nghìn năm nhân dân ta sống dưới thời Bắc thuộc, Trung Quốc luôn tìm cách đồng hóa dân tộc ta. Nhưng với ý thức và lòng tự hào, tự tôn dân tộc, nhân dân ta vẫn giữ được ngôn ngữ, tiếng nói của dân tộc mình. Có thể nói, tiếng nói là tấm lụa bạch hứng vong hồn của biết bao thế hệ đã qua, là tiếng nói tinh thần, tâm hồn của ông cha ta từ ngàn đời truyền lại cho con cháu. Tiếng Việt của ta rất giàu và đẹp "tiếng tha thiết nói thường nghe như hát/ Kể mọi điều ríu rít bằng âm thanh". Những người mẹ truyền giọng điệu mình cho con tập nói cũng là truyền cho con tình yêu với ngôn ngữ, văn hóa, bản sắc dân tộc. Từng ngôn từ, câu chữTiếng Việt đã tạo nên sự gắn kết của cả một cộng đồng quốc gia, dân tộc "Mỗi sớm dậy nghe bốn bề thân thiết/ Người qua đường chung tiếng Việt cùng tôi/ Như vị muối chung lòng biển mặn/ Như dòng sông thương mến chảy muôn đời”. Không có nhân dân, đất nước ta không thể có kho tàng ngôn ngữ diệu kì đến dân còn là người "gánh tên xã tên làng trong mỗi chuyến di dân". Câu thơ gợi nhắc lại những năm tháng gian lao của cộng đồng người dân Việt trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Họ đã phát bờ, mở cõi, khai hoang, lấn biển để dựng xây phát triển đất nước như ngày hôm chỉ là gìn giữ, xây dựng đất nước, mà những con người tưởng chừng như bình dị ấy lại ngày đêm chống ngoại xâm và diệt nội thù"Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm Có nội thù thì vùng lên đánh bại"Lịch sử của dân tộc Việt Nam là lịch sử đấu tranh đầy đau thương và anh dũng “Từ Triệu Đinh Lí Trần bao đời gây nền độc lập/ Cùng Hán Đường Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”. Chính vì thế, điệp từ “có… thì” đã cho thấy một sự tự nguyện dâng hiến cả tuổi xuân để làm nên mùa xuân của đất nước. Họ hết mình ra trận vì nền độc lập, tự do của dân tộc. Từ “họ” được lặp lại nhiều lần đứng ở những đầu câu thơ đã khẳng định vai trò quan trọng của nhân dân trong lịch sử, và gợi lên những lớp người nối tiếp thay nhau lao động, xây dựng và bảo vệ giữ gìn độc lập dân cả đều khép lại trong mạch cảm xúc trào dâng, tất cả đã minh chứng cho một chân lí mà Nguyễn Khoa Điềm đã khám phá"Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại".Hai câu thơ là định nghĩa về đất nước giản dị mà sâu sắc. Những cảm xúc, suy ngẫm của nhà thơ cứ dồn tự dần để rồi cuối cùng dẫn tới cao trào, làm bật lên tư tưởng cốt lõi "Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân" vì nhân dân là người chiến đấu, xây dựng, bảo vệ đất nước này bằng mồ hôi, xương máu của mình. Không có nhân dân sẽ không có phong tục, tập quán, truyền thống, lối sống nghĩa tình, thủy chung, cao Phân tích Đất nước bài số 1Đất nước là đề tài muôn thuở của thơ văn Việt Nam. Chúng ta đã bắt gặp đất nước chìm trong đau thương, mất mát qua thơ Hoàng Cầm; gặp đất nước đang đổi mới từng ngày qua thơ Nguyễn Đình Thi. Nhưng có lẽ đất nước được nhìn từ nhiều khía cạnh, đầy đủ và trọn vẹn nhất qua bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm. Hình hài đất nước từ khi được sinh ra cho đến khi phải trải qua bao nhiêu sóng gió chiến tranh được tái diễn sinh động qua một hồn thơ tinh tế, phóng khoáng của Nguyễn Khoa giả nhìn đất nước từ nhiều khía cạnh, trải qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử. Đất nước là tên gọi thiêng liêng, bình dị nhưng chất chứa bao nhiêu ngọn nguồn của cảm xúc chính tác thơ được mở đầu bằng những vần thơ nhẹ nhàng, tinh tế đưa người đọc trở về với những ngày đầu mới khai sinhKhi ta lớn lên đất nước đã có rồiĐất nước có trong những cái "ngày xửa ngày xưa mẹ..." thường hay kểĐất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ănĐất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre đánh nước hiện lên qua những câu thơ thật bình dị, gần gũi, nó không phải là một khái niệm trừu tượng mà là một khái niệm hiện hữu hằng ngày trong cuộc sống của mỗi chúng ta. Tác giả sử dụng từ “khi” để đánh dấu sự ra đời của khái niệm “đất nước”. Từ khi mỗi chúng ta sinh ra thì đất nước đã có rồi. Sau câu thơ ấy, tác giả bắt đầu lí giải nguồn gốc của đất nước mà mỗi người đều mong muốn hiểu thấu được. Giọng thơ dịu nhẹ, ngọt ngào dẫn dụ người đọc về với những “ngày xửa ngày xưa”. Đó như một nốt nhạc của quá khứ trở về trong những suy nghĩ của con người. Từ "ngày xửa, ngày xưa” đánh dấu những điều gì đó xa xưa, rất xưa, không xác định thời gian cụ thể, chỉ biết rằng nó đã có từ lâu đời. Đất nước đồng thời hình thành từ khi dân mình biết đánh giặc, là những con người đó làm nên đất nước…Đất nước còn gắn liền với cuộc sống bình dị, thân quen của người nông dân Việt Nam. Tác giả không chỉ dừng lại ở đó, đất nước còn được lý giải chính là thành quả của công cuộc lao động để xây dựng và phát triểnCái kèo cái cột thành tênHạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàngĐất nước có từ ngày đóMột một dụng cụ được tạo ra để phục vụ cho đời sống sản xuất cũng như sinh hoạt của con người như “kèo, cột” đều gắn bó với lịch sử ra đời của đất nước. Rất bình dị, rất chân thực nhưng nó như là một sự giải thích đúng đắn. Hình ảnh Đất Nước trong 9 câu thơ đầu Việt Bắc qua sự cảm nhận của tác giả thật mới mẻ nhưng cũng rất gần gũi, thân Khoa Điềm như dẫn người đọc đi vào những cung bậc tình cảm khác của đất nước, đó là chuyện tình yêu lứa đôi e ấp nhưng tha thiết và mặn nồngĐất là nơi anh đến trườngNước là nơi em tắmĐất nước là nơi ta hò hẹnĐất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầmĐất nước không chỉ hiển hiện trong không gian văn hóa, phong tục tập quán của con người mà còn hiện lên trong những tình yêu lứa đôi mặn nồng, tha thiết nhất. Tác giả đã cắt nghĩa “đất nước” thành hai từ “đất” và “nước” để lí giải cụ thể ý nghĩa của từng từ. Đây có thể coi là sự tinh tế và đầy thi vị của Nguyễn Khoa Điềm. Nhưng dù được tách ra thì đất nước vẫn là một khái niệm trọn vẹn và đầy ý nghĩa nước còn được mở ra theo chiều dài của lịch sử và chiều dài của không gian văn hóa, của những con người vẫn còn trằn trọc tha thiết đi tìm hình bóng quê hương. Đất nước được hình thành từ những câu chuyện xa xưa, từ những điển tích điển cố mà người đời sau vẫn luôn nhắc nhở nhau. Hình ảnh “con chim phượng hoàng”, “núi bà Đen, bà Điểm”, “Lạc Long Quân Âu Cơ” chính là minh chứng cho sự phát triển nhiều thăng trầm nhưng đáng tự hào của chúng ta. Nhớ về cội nguồn, nhớ về những ngày xưa vất vả chính là đạo lí, truyền thống uống nước nhớ nguồn mãnh liệt của nhân dân nước trong ý niệm của Nguyễn Khoa Điềm còn là sự tiếp nối truyền thốngNhững ai đã khuấtNhững ai bây giờYêu nhau và sinh con đẻ cáiGánh vác phần người đi trước để lạiDặn dò con cháu chuyện mai sauTrong sự hình thành và phát triển bề dày văn hóa lịch sử ngày càng được khẳng định. Những con người đã ngã xuống vì đất nước, những con người thế hệ mai sau cần phải cố gắng gìn giữ và phát huy được truyền thống tốt đẹp Khoa Điềm đã có cái nhìn đa chiều về đất nước từ khía cạnh đời thường, khía cạnh lịch sử, khía cạnh không gian và thời gian mang đến cho người đọc nhận thức đúng đắn nhất về đất nước mà chúng ta đang sống và cống hết tác giả còn khẳng địnhTrong anh và em hôm nayĐều có một phần đất nướcCó thể nói đất nước đã đi vào và in hằn vào máu thịt của mỗi người, nhắc nhở trách nhiệm và nghĩa vụ của chúng ta về công cuộc xây dựng và bảo vệ sự vững mạnh của đất nước nước còn được Nguyễn Khoa Điềm tích lũy thành một khái niệm sâu sắcVà ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãiChẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông chaÔi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấyNhững cuộc đời đã hóa núi sông taMột quan niệm sâu sắc, giàu giá trị nhân sinh quan khiến cho người đọc không thể phủ nhận sự tồn tại của đất nước là một thực tế. Đất nước còn biểu tượng cho lòng thành kính, sự biết ơn đến những người đã ngã xuống vì hòa bình, tự do cho hôm nayHọ đã sống và chếtGiản dị và bình tâmKhông ai nhớ mặt đặt tênNhưng họ đã làm ra đất nướcLại thêm một sự lí giải đúng đắn cho định nghĩa “đất nước”, những con người đó họ dù chết nhưng trái tim họ vẫn còn sống mãi trong cuộc sống của những người ở lại. Nhưng ở hai câu thơ cuối có thể nói Nguyễn Khoa Điềm đã đưa ra định nghĩa đúng đắn và sâu sắc nhất về đất nướcĐất nước này là đất nước của nhân dânĐất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần vậy, nhân dân chính là chủ nhân của đất nước. Bởi vậy đất nước này phải thuộc về nhân dân. Tư tưởng của tác giả rất tiến bộ, rất đời thường và rất sâu vậy, Nguyễn Khoa Điềm bằng những lý lẽ và dẫn chứng đầy thuyết phục đã khẳng định được vị trí, vai trò vô cùng to lớn của đất nước trong cuộc sống của mỗi con người. Gấp trang sách lại nhưng những hình ảnh về đất nước vẫn còn sống mãi trong lòng người bài phân tích bài thơ Đất Nước3. Phân tích Đất nước bài số 2Đất nước luôn là tiếng gọi thiêng liêng muôn thuở, muôn nơi và của bao triệu trái tim con người. Đất nước đi vào đời chúng ta qua những lời ru ngọt ngào êm dịu, qua những làn điệu dân ca mượt mà và những vần thơ sâu lắng, thiết tha và rất đỗi tự hào của bao lớp thi nhân. Ta bắt gặp một hình tượng đất nước đau thương nhưng vẫn ngời lên ý chí đấu tranh trong trang thơ Nguyễn Đình Thi đồng thời cũng rất dịu dàng ý tứ trong thơ Hoàng Cầm. Nhưng với Nguyễn Khoa Điềm, ta bắt gặp một cái nhìn toàn vẹn, tổng hợp từ nhiều bình diện khác nhau về một đất nước của nhân dân. Tư tưởng ấy đã qui tụ mọi cách nhìn và cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước. Thông qua những vần thơ kết hợp giữa cảm xúc và suy nghĩ, trữ tình và chính luận, nhà thơ muốn thức tỉnh ý thức, tinh thần dân tộc, tình cảm với nhân dân, đất nước của thế hệ trẻ Việt Nam trong những năm chống Mĩ cứu đầu đoạn trích là giọng thơ nhẹ nhàng, thủ thỉ như những lời tâm tình kết hợp với hình ảnh thơ bình dị gần gũi đưa ta trở về với cội nguồn đất ta lớn lên Đất nước đã có rồiĐất Nước có trong những cái ngày xửaNgày xưa mẹ thường hay kểĐất Nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà ănĐất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh nước trước hết không phải là một khái niệm trừu tượng mà là những gì rất gần gũi, thân thiết ở ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi con người. Đất nước hiện hình trong câu chuyện cổ tích ngày xửa ngày xưa mẹ kể, trong miếng trầu của bà, cây tre trước ngõ… gợi lên một Đất nước Việt Nam bao dung hiền hậu, thủy chung và sắt son tình nghĩa anh em, nhưng cũng vô cùng quyết liệt khi chống quân xâm lược. Mỗi quả cau, miếng trầu, cây tre đều gợi về một vẻ đẹp tinh thần Đất nước, đều thấm đẫm ngọn nguồn lịch sử dân nước còn là hiện thân của những phong tục tập quán ngàn đời, minh chứng của một dân tộc giàu truyền thống văn hóa, giàu tình yêu thương gắn bó với mái ấm gia đình. Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn. Gừng tất nhiên là cay, muối tất nhiên là mặn. Tình yêu cha mẹ mãi mãi mặn nồng như chính chân lí tự nhiên kia. Hình ảnh thơ khiến ta rưng rưng nhớ về một lời nhắc nhở thiết tha về tình nghĩa của một ai đó hôm nào Tay bưng đĩa muối chén gừng, Gừng cay muối mặn xin đừng quên nước còn là thành quả của công cuộc lao động vất vả để sinh tồn, để dựng xây nhà cửaCái kèo cái cột thành tênHạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàngĐất Nước có từ ngày đây Đất nước không còn là một khái niệm trừu tượng nữa mà cụ thể, quen thuộc và giản dị biết bao. Việc tác giả sử dụng những chất liệu dân gian để thể hiện suy tưởng của mình về đất nước với quan niệm “Đất nước của nhân dân”.Vẫn bằng lời trò chuyện tâm tình với mỗi nhân vật đối thoại tưởng tượng, Nguyễn Khoa Điềm đã diễn giải khái niệm đất nước theo kiểu riêng của mìnhĐất là nơi anh đến trườngNước là nơi em tắmĐất Nước là nơi ta hò hẹnĐất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ nước không chỉ được cảm nhận bởi không gian địa lí mênh mông từ rừng đến bể mà còn được cảm nhận bởi không gian sinh hoạt bình thường của mỗi người, không gian của tình yêu đôi lứa, không gian của nỗi nhớ thương. Ý niệm về đất nước được gợi ra từ việc chia tách hai yếu tố hợp thành là đất và nước với những liên tưởng gợi ra từ đó. Sử dụng lỗi chiết tự mà vẫn không ngô nghê, mà vẫn thật duyên dáng và ý nhị, có thể gợi ra cho thấy một quan niệm mang những đặc điểm riêng của dân tộc ta về khái niệm đất nước, mà tư duy thơ có thể tách ra, nhấn mở ra cho anh một chân trời kiến thức, nước gột rửa tâm hồn em trong sáng dịu hiền. Cùng với thời gian lớn lên đất nước trở thành nơi anh và em hò hẹn. Không những thế, đất nước còn người bạn chia sẻ những tình cảm nhớ mong của những người đang yêu. Đất và nước tách rời khi anh và em đang là hai cá thể, còn hòa hợp khi anh và em kết lại thành ta. Chiếc khăn – biểu tượng của nỗi nhớ thương – đã từng làm bao trái tim tuổi trẻ bâng khuâng “Khăn thương nhớ ai, Khăn rơi xuống đất…”, một lần nữa lại khiến lòng người xúc động, bồi hồi trước tình cảm chân thành của những tâm hồn yêu thương say Nước còn là nơi trở về của những tâm hồn thiết tha với quê hương. Hình ảnh con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc, con cá ngư ông móng nước biển khơi mang phong cách dân ca miền Trung, thẫm đẫm lòng yêu quê hương cả tác giả. Đất Nước mình bình dị, quen thuộc nhưng đôi khi cũng lớn rộng, tráng lệ và kì vĩ vô cùng, nhất là đối với những người đi xa. Dù chim ham trái chín ăn xa, thì cũng giật mình nhớ gốc cây đa lại về. Gia đình Việt Nam là như thế, lúc nào cũng hướng về quê hương, hướng về cội nước trường tồn trong không gian và thời gian Thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông để mãi mãi là nơi dân mình đoàn tụ, là không gian sinh tồn của cộng đồng Việt Nam qua bao thế hệ. Nguyễn Khoa Điềm gợi lại truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ, về truyền thuyết Hùng Vương và ngày giỗ tổ. Nhắc lại Lạc Long Quân và Âu Cơ, nhắc đến ngày giỗ tổ, Nguyễn Khoa Điềm muốn nhắc nhở mọi người nhớ về cội nguồn của dân tộc. Dù bôn ba chốn nào, người dân Việt Nam cũng đều hướng về đất tổ, nhớ đến dòng giống Rồng Tiên của đến chuyện xưa ấy như để khẳng định, cũng là để nhắc nhởNhững ai đã khuấtNhững ai bây giờYêu nhau và sinh con đẻ cáiGánh vác phần người đi trước để lạiDặn dò con cháu chuyện mai sauCảm hứng thơ của tác giả có vẻ phóng túng, tự do nhưng thật ra đây là một hệ thống lập luận khá rõ mà chủ yếu là tác giả thể hiện đất nước trong ba phương diện trong chiều rộng của không gian lãnh thổ địa lí, trong chiều dài thăm thẳm của thời gian lịch sử, trong bề dày của văn hóa – phong tục, lối sống tâm hồn và tính cách dân phương diện ấy được thể hiện gắn bó thống nhất và ở bất cứ phương diện nào thì tư tưởng đất nước của nhân dân vẫn là tư tưởng cốt lõi, nó như một hệ qui chiếu mọi cảm xúc và suy tưởng của nhà cụ thể hơn nữa, gần gũi hơn nữa, Đất nước ở ngay trong máu thịt của mỗi chúng taTrong anh và em hôm nayĐều có một phần đất nướcĐất nước đã thấm tự nhiên vào máu thịt, đã hóa thành máu xương của mỗi con người, vì thế sự sống của mỗi cá nhân không phải là riêng của mỗi con người mà là của cả đất nước. Mỗi con người đều thừa hưởng ít nhiều di sản văn hóa vật chất và tinh thần của đất nước, phải giữ gìn và bảo vệ để làm nên đất nước muôn những quan niệm như vậy về đất nước, phần sau của tác phẩm tác giả tập trung làm nổi bật tư tưởng Đất nước của nhân dân, chính Nhân dân là người đã sáng tạo ra Đất tưởng đó đã dẫn đến một cái nhìn mới mẻ, có chiều sâu về địa lí, về những danh lam thắng cảnh trên khắp mọi miền đất nước. Những núi Vọng Phu, hòn Trống Mái, những núi Bút non Nghiên… không còn là những cảnh thú thiên nhiên nữa mà được cảm nhận thông qua những cảnh ngộ, số phận của nhân dân, được nhìn nhận như là những đóng góp của nhân dân, sự hóa thân của những con người không tên tuổi “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất nước những núi Vọng Phu, cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái”, “Người học trò thắng cảnh”.Ở đây cảnh vật thiên nhiên qua cách nhìn của Nguyễn Khoa Điềm, hiện lên như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân. Chính nhân dân đã tạo dựng nên đất nước, đã đặt tên, đã ghi dấu vết cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông. Từ những hình ảnh, những cảnh vật, những hiện tượng cụ thể, nhà thơ qui nạp thành một khái quát sâu sắcVà ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãiChẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông chaÔi ! Đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấyNhững cuộc đời đã hóa núi sông tưởng Đất nước của nhân dân đã chi phối cách nhìn của nhà thơ khi nghĩ về lịch sử bốn nghìn năm của đất nước. Nhà thơ không ca ngợi các triều đại, không nói đến những anh hùng được sử sách lưu danh mà chỉ tập trung nói đến những con người vô danh, bình thường, bình dị. Đất nước trước hết là của nhân dân, của những con người vô danh bình dị đã sống và chếtGiản dị và bình tâmKhông ai nhớ mặt đặt tênNhưng họ đã làm ra Đất nướcHọ lao động và chống giặc ngoại xâm, họ đã giữ và truyền lại cho các thế hệ mai sau các giá trị văn hóa, văn minh, tinh thần và vật chất của đất nước từ hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, tên xã, tên làng đến những truyện thần thoại, câu tục ngữ, ca dao. Mạch cảm xúc lắng tụ lại để cuối cùng dẫn tới cao trào, làm nổi bật lên tư tưởng cốt lõi của cả bài thơ vừa bất ngờ, vừa giản dị và độc đáoĐất nước này là Đất nước nhân dânĐất nước của Nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoạiMột định nghĩa giản dị, bất ngờ về đất nước. Đất nước của ca dao thần thoại nhưng vẫn thể hiện những phương diện quan trọng nhất của truyền thống nhân dân, của dân tộc Thật đắm say trong tình yêu, biết quí trọng tình nghĩa và cũng thật quyết liệt trong đấu tranh chống giặc ngoại câu thơ khép lại tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp của cảnh sắc quê hương với một tâm hồn lạc quan phơi phới. Tất cả ào ạt tuôn chảy trong tâm trí người đọc những tí tách reo vui… Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đã góp thêm thành công cho mảng thơ viết về đất nước. Từ những cảm nhận mang tính gần gũi, quen thuộc, đất nước không còn xa lạ, trừu tượng mà trở nên thân thiết nhưng vẫn rất thiêng liêng. Đọc Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm ta không chỉ tìm về cội nguồn dân tộc mà còn khơi dậy tinh thần dân tộc trong mỗi con người Việt Nam trong mọi thời đại.>>> Phân tích sự vận động trong quan niệm về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm để thấy được những điểm mới trong tư tưởng và hình thức biểu hiện về quan niệm đất Phân tích bài Đất nước bài số 3Cùng với các nhà thơ trong thế hệ chống Mỹ lúc bấy giờ, Nguyễn Khoa Điềm dường như cũng hướng ngòi bút của mình đến một chủ đề lớn lao của thơ ca đương thời đó không gì khác chính là đất nước. Tuy nhiên, có thể nói rằng hình ảnh “đất nước” trong thơ Nguyễn Khoa Điềm không chỉ có đau thương mất mát hay chỉ có những cảnh sơn hào hùng vĩ mà “đất nước” hiển hiện lên trọn vẹn qua những suy nghĩ và cảm nhận hết sức mới mẻ. Qua đoạn trích “Đất nước” trong trường ca “Mặt đường khát vọng” của ông thì đây chính là một định nghĩa đủ đầy về đất nước và qua đó cũng thể hiện sâu sắc tư tưởng cốt lõi của tác phẩm Đất nước là của nhân đầu bài thơ chính là một lời tâm tình sâu lắng đưa ta về với cội nguồnKhi ta lớn lên đất nước đã có rồiĐất nước có trong những cái ngày xửaNgày xưa mẹ thường hay kểĐất nước bắt đầu bằng miếng trầu bây giờ bà ănĐất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre đánh giặcTóc mẹ thì bới sau đầuCha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặnCái kèo cái cột thành tênHạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàngĐất nước có từ ngày đó…Trong đoạn thơ này của Nguyễn Khoa Điềm dường như ta có thể thấy rằng, đất nước không phải là cái gì trừu tượng, xa xôi khó nắm bắt mà đất nước chính là những gì thân thuộc và gần gũi nhất. Đất nước có từ trong những câu chuyện ngày xửa ngày xưa, trong miếng trầu của bà ăn, trong dáng tre bất khuất kiên cường, trong những phục tục tập quán, trong hạt gạo nấu những bữa cơm hàng ngày… đều hiện hình lên một đất nước Việt Nam rất đỗi anh hùng, tình nghĩa, giản dị mà thân thương nhất. Và đây có thể nói chính là một định nghĩa, định danh về đất nước hoàn toàn mới và hoàn toàn thiết thực nhất, rõ ràng nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, “đất nước” không chỉ là những khoảng giới hạn về không gian địa lý chật hẹp nữa mà ở đây nó còn có chiều dài thời gian lịch sử và chiều sâu văn hóa. Không những thế, “đất nước” còn chính là tình yêu đôi lứa, có trong tình yêu đôi lứaĐất là nơi anh đến trườngNước là nơi em tắmĐất Nước là nơi ta hò hẹnĐất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm…Đất và nước dường như tách riêng, và từng phần đều lại như đã tượng trưng cho những điều gần gũi nhất. “Là nơi anh đến trường” hay “là nơi em tắm” hàng ngày. Thế nhưng để rồi khi “ta hò hẹn” thành một đôi trọn vẹn thì cũng như đất nước gộp lại vẹn tròn lại thành một. Và có thể nói rằng với phát hiện mới mẻ này, Nguyễn Khoa Điềm đã chỉ ra rằng Đất nước không chỉ bên ta, xung quanh ta và còn có cả ở trong ta nước còn chính là nơi khởi đầu cho những câu chuyện xa xưa, cho những câu ca dao tục ngữ, điển tích điển cố và tất thảy mọi sự sinh thành. Và hình ảnh đặc sắc “con chim phượng hoàng”, “núi Bà Đen, Bà Điểm”, “Lạc Long Quân Âu Cơ” là những minh chứng độc đáo cho đất nước hào hùng nghìn năm văn hiến của chúng ta. Nhớ về đất nước cũng như chính là một cách để ta có thể nhớ về cội nguồn, hiểu được vì sao chúng ta được sinh ra. Chính vì thế, đất nước trong ý niệm của Nguyễn Khoa Điềm còn là sự tiếp nối truyền thốngNhững ai đã khuấtNhững ai bây giờYêu nhau và sinh con đẻ cáiGánh vác phần người đi trước để lạiDặn dò con cháu chuyện mai sau…Trong anh và em hôm nayĐều có một phần đất nướcBiết bao thế hệ anh cha ta đã hi sinh, đã ngã xuống để bảo vệ đất nước, bảo vệ núi sông bờ cõi. Đó còn chính là cả một chiều dài lịch sử hào hùng rất tự hào của dân tộc ta. Chính vì thế, con cháu đời sau phải tiếp tục gìn giữ truyền thống ấy. Với một truyền thống yêu nước, thương nòi, luôn luôn sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ non sông cho những thế hệ về sau. Và cho đến thời đại của ngày hôm nay, “trong và em” “đều có một phần đất nước”. Dường như chính phần đất nước ấy là phần máu thịt, là một phần trách nhiệm phải giữ gìn và xây dựng, phần tình yêu để bảo vệ đất nước cho con cháu mai có phải những người đã không quản ngại thân mình hy sinh cho đất nước, làm nên hình hài của đất nước cho nênVà ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãiChẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông chaÔi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấyNhững cuộc đời đã hóa núi sông taKhi nói về 4000 năm lịch sử oanh liệt hào hùng của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm không hề kể về những vương triều to lớn hay những anh hùng nổi tiếng mà lại nhấn mạnh “người làm ra đất nước” lại chính là những con người bình dị đời thường và họ là những người vô danh. Chính họ chứ không phải ai khác, không phải là một ông vua bà chúa nào, họ đã gìn giữ và truyền lại hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, ngôn ngữ cho đời sau. Và từ chính những con người vô danh làm nên đất nước bao năm qua đã giúp tác giả khẳng định một chân lýĐất nước này là đất nước của nhân dânĐất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoạiĐối với câu thơ sau, hai vế dường như song song nhân dân - đất nước lại càng khẳng định đất nước chính là kết tinh những giá trị tinh thần cao quý trong đời sống trí tuệ và tình cảm của nhân dân. Những giá trị ấy cũng như đã kết tinh lại trong những câu ca dao, tục ngữ, trong những câu chuyện thần thoại cổ tích của cha ông ta để lại. Và định nghĩa về đất nước đến đây vừa giản dị nhưng cũng vừa lớn lao, sâu sắc biết bao nước đã dường như đã được khẳng định là của nhân dân và cũng là của anh, của em, vàEm ơi em Đất Nước là máu xương của mìnhPhải biết gắn bó và san sẻPhải biết hóa thân cho dáng hình xứ sởLàm nên Đất Nước muôn đờiĐoạn thơ thân tình như một lời nhắn nhủ thiết tha đằm thắm mà rất đỗi chân thành. Bởi sự sống của chúng ta không chỉ do cha mẹ sinh thành mà còn vì đất nước nuôi dưỡng. Chính vì thế mà trong mỗi chúng ta cần phải có trách nhiệm gìn giữ, phát triển nó và truyền lại cho những thế hệ tiếp nước đã được xem là một đề tài, cảm hứng chủ đạo của thơ ca thời kì kháng chiến chống Mĩ. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm dường như cũng đã nhận thức sâu sắc vai trò và sự đóng góp to lớn của nhân dân trong cuộc đấu tranh trường kì và vô cùng ác liệt này. Chính vì thế có thể nói rằng tư tưởng đất nước của nhân dân từ trong văn học truyền thống đã được nhà thơ phát triển đến đỉnh cao, mang tính dân chủ sâu sắc. Dùng chất liệu văn hóa dân gian được sử dụng nhuần nhuyễn, biến đổi linh hoạt đầy sáng tạo chính là nét đặc sắc thẩm mĩ và thống nhất với "tư tưởng Đất nước của nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại” của bài Kiến thức mở rộng về bài thơ Đất nước* Khái quát về trường ca Mặt đường khát vọng- Hoàn cảnh sáng tác Trường ca được viết năm 1971, khi Nguyễn Khoa Điềm đang tham gia chiến đấu ở chiến trường Bình Trị Thiên, giữa không khí sục sôi chống Mĩ của cả dân Giá trị nội dung Bản trường ca ra đời thức tỉnh tuổi trẻ thành thị ở các vùng tạm chiếm ở miền Nam nhận rõ bộ mặt xâm lược của đế quốc Mĩ, hướng về nhân dân, đất nước. Từ đó, kêu gọi, khích lệ mọi người đứng lên, xuống đường đấu tranh hòa nhịp với cuộc chiến đấu của toàn dân tộc.* Khái quát về đoạn trích Đất nước- “Đất nước” thuộc phần đầu của chương V trong trường ca Mặt đường khát Cảm hứng bao trùm đoạn trích là ngợi ca công lao vĩ đại của nhân dân trên hành trình dựng nước và giữ Đoạn trích gồm hai phần+ Phần 1 “Khi ta lớn lên… Đất Nước muôn đời” => Cách cảm nhận và lí giải của nhà thơ về đất nước.+ Phần 2 Từ “Những người vợ nhớ chồng… trăm dáng sông xuôi” => Tập trung thể hiện tư tưởng đất nước là của nhân dân.* Một số nhận định hay về đoạn trích Đất nước- “… Điều may mắn với tôi là được sống trong những tháng năm hào hùng của dân tộc để hiểu nước, hiểu người và hiểu cả mình hơn…”Nguyễn Khoa Điềm- “… Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm đã sáng tạo một hình tượng Đất Nước thân quen mà mới lạ trong thi ca Việt Nam… Nguyễn Khoa Điềm đã khắc họa nên một Đất Nước toàn vẹn, là sự thống nhất của lãnh thổ và văn hóa, của lịch sử và sự sống, một Đất Nước trong không gian tinh thần của người Việt Nam".- “… Một Đất Nước như thế không thể có được bằng bút pháp miêu tả bên ngoài, cho nên tất yếu nhà thơ phải dùng hình thức suy ngẫm, liên tưởng, liệt kê, để dần dần đưa người đọc vào trí tưởng tượng của họ, vào kí ức của họ, nhìn Đất Nước trong chính tâm hồn họ...”.Trần Đình Sử, Đọc văn học văn- “… Những sợi nganh dọc dệt nên hình tượng thơ Nguyễn Khoa Điềm đều óng ánh một màu sắc đặc biệt của chất liệu văn hóa dân gian - đó là một lực hút nữa của đoạn thơ Đất Nước… để rồi người đọc lặng đi xúc động trước một cách định nghĩa thật bất ngờ của Nguyễn Khoa Điềm…”.Nguyễn Quang Trung, Phân tích bình giảng tác phẩm văn học 12-/-V. Tổng kết bài hướng dẫn phân tích bài thơ Đất nướcQua những nội dung gợi ý cũng như một số bài văn mẫu tham khảo phân tích bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm mà Đọc Tài Liệu vừa cung cấp ở trên, hi vọng các em sẽ dễ dàng nắm được những ý quan trọng của bài thơ, có vốn từ ngữ rộng hơn vận dụng trình bày trong bài làm của các em làm bài tốt !
Nhiều em học sinh băn khoăn bởi không biết trình bày các ý chính trong bài viết phân tích phần 2 đoạn trích Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm như thế nào cho khoa học, rõ ràng, rành mạch. Để giải quyết vấn đề của mình, các em có thể tham khảo dàn ý, bài mẫu phân tích bài thơ Đất nước phần 2 dưới đây. Bài viết liên quan Dàn ý phân tích phần 2 đoạn trích Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm Tìm hiểu đoạn trích Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm Phân tích đoạn đầu của bài thơ Đất Nước - trích trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm Tư tưởng đất nước của nhân dân được biểu hiện như thế nào trong đoạn trích Đất Nước So sánh hình tượng đất nước trong bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm và Nguyễn Đình Thi Đề bài Phân tích phần 2 đoạn trích Đất Nước của Nguyễn Khoa ĐiềmMục Lục bài viếtI. Dàn ý II. Bài văn mẫu Văn mẫu phân tích phần 2 của bài Đất nước chọn lọcMẹo Phương pháp phân tích đoạn văn, đoạn thơ hay, dễ ghi điểmI. Dàn ý Phân tích phần 2 đoạn trích Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm Chuẩn1. Mở bài- Giới thiệu tác giả- Giới thiệu sơ qua về tác phẩm2. Thân bài* Khái quát qua về phần 1 đất nước được cảm nhận qua phương diện lịch sử, chiều sâu không gian và thời gian- Đất nước có từ bao giờ ?- Định nghĩa về đất nước* Phần hai Đất nước của nhân dân- Tất cả những gì của đất nước không chỉ là của thiên nhiên tạo ra mà là những phẩm chất tốt là một phần máu thịt của những người dân- Tình yêu thương sự thủy chung son sắc mà ta có "hòn Trống" "hòn Mái"- Nhờ có truyền thống hiếu học mà ta có "núi Bút" "non Nghiên"- Nhờ có tình yêu quê hương đất nước tinh thần bất khuất, lòng dũng cảm mà ta có những di tích lịch sử về quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước...Còn tiếp>> Xem chi tiết Dàn ý Phân tích phần 2 của bài thơ Đất nước tại đây. II. Bài văn mẫu Phân tích phần 2 đoạn trích Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm ChuẩnNguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ trẻ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, những sáng tác của ông nổi bật với phong cách thơ đậm chất chính luận và trữ tình với cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng. Trường ca "Mặt đường khát vọng" tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm, tác phẩm được sáng tác vào năm 1971 tại chiến khu Trị Thiên nhằm mục đích thứ tỉnh thanh niên đô thị vùng tạm chiến miền Nam về sứ mệnh với cuộc chiến chống Mỹ. Đoạn trích "Đất nước" nằm trong chương năm của đoạn Trường ca và một trong những đoạn hay nhất của tác phẩm viết về đất đầu đoạn trích tác giả đã có cảm nhận mới mẻ về quá trình hình thành đất nước. Đất nước hình thành một cách bình dị gần gũi và gắn bó với cuộc sống hàng ngày, đó là những câu truyện cổ tích, hay những câu ca dao, những phong tục của người dân, đất khổ thơ thứ hai, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện cách cảm nhận mới lạ mà cũng quá đỗi bình dị về hai tiếng Đất nước. Đất nước là gì? Đất nước là những thứ gần gũi với chúng ta, là con đường ta đi học là lớp học chúng ta ngồi là bến nước em tắm là cây đa giếng nước là sân đình làng là không gian riêng cho đôi lứa yêu nhau. Đất nước còn là sự hòa quyện cá nhân với cá nhân với cộng đồng, đất nước là sự hòa quyện giữa tình yêu đôi lứa và tình yêu tổ quốc. Đất nước là những truyền thống đẹp là nơi gần gũi với mỗi con người chúng ta, đất nước là máu xương là huyết hệ, là thân thể ruột thịt, là những gì ta bảo vệ dù cho có phải hi sinh tất tác giả Nguyễn Khoa Điềm, nhân dân là chủ nhân của đất nước là người gìn giữ bảo vệ và xây dựng đất nước. Để làm sáng tỏ tư tưởng đó tác giả đã xem xét thật kỹ các tầng địa lí, lịch sử, văn hóa đất nước để chứng minh được nhân dân là người làm ra đất nước ở không gian địa Khoa Điềm đã ngắm nhìn đất nước qua những danh lam thắng cảnh trải dài khắp đất nước. Tất cả các địa danh đó đều gắn liền với những di tích lịch sử một sự thật mà lịch sử đã chứng kiến. Nói cách khác đấy chính là những huyền thoại những sự tích sự thật lịch sử về nội dung đã làm lên địa danh đó biến chúng trở thành những danh lam thắng cảnh những di tích lịch sử văn hóa được mọi người thừa nhận và biết đến nó, là người vợ nhớ người chồng đã lên núi "Vọng Phu", là những vợ chồng yêu nhau ghép lên hòn Trống Mái, những người học trò nghèo đã tạo nên những núi Bút non Nghiên hay những Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm đã đóng góp công sức tạo lên những địa danh mang tên cảm nhận của nhà thơ mỗi danh lam thắng cảnh không chỉ là nét vẽ tô điểm cho đất nước hình chữ "S" của chúng ta mà còn là ẩn chứa trong mấy ngàn năm cho sự thủy chung tình nghĩa vợ chồng, tình thần yêu nước truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm ý thức cội nguồn biết ơn những người đi trước những người có công với đất nước, tinh thần hiếu học ý chí vượt qua khó khăn gian khổ, tinh thần xả thân vì cộng đồng. Khai thác đất nước ở phương diện địa lí tác giả không chỉ cảm nhận đất nước trù phú mà cảm nhận nhiều miền đất nhiều địa danh với những cái tên dân biệt nhà thơ không chỉ ngắm đất nước ở hình dáng bên ngoài mà còn nhìn sâu vào bên trong để phát hiện chính những người dân là những người làm nên những địa danh đó để từ đó tác giả đi đến kết luận mang tính khái danh lam thắng cảnh nổi tiếng khắp miền tổ quốc trên đều là do nhân dân tạo ra, đều là sự kết tinh từ bao công sức của những con người bình thường vô danh. Hay nói cách khác nhân dân chính là người tạo ra đất nước từ mọi phương diện địa lí. Với cấu trúc quy nạp nghệ thuật liệt kê động từ "góp" được lặp lại nhiều lần nhà thơ khẳng định công sức lao động làm nên những địa danh giả còn khai thác trên phương diện lịch sử tác giả đã nhìn vào bốn nghìn năm lịch sử của nước ta để thấy nhân dân là những người cần cù trong lao động, anh hùng trong chiến đấu, trong bốn nghìn năm lịch sử có những mốc son chói lọi do các vị anh hùng như Nguyễn Trãi, Hưng Đạo Đại Vương, Nguyễn Huệ... không chỉ những anh hùng nổi tiếng tác giả còn nói đến sự hi sinh âm thần của những người vô danh họ có thể là những anh lính họ hi sinh tuổi thanh xuân để bảo vệ đất nước họ đã nằm lại chiến trường họ không tên không tuổi nhưng họ cống hiến hết mình cho tổ quốc, hay là những người ngày đêm hăng say lao động sản xuất. Họ làm nên đất nước bằng cánh chuyền cho ta những giá trị vật chất, tinh thần bằng lúa gạo, tiếng nói, ngọn lửa, bản sắc văn hóa dân là những người đấu tranh chống giặc ngoại xâm để tạo dựng chủ quyền xây dựng nền móng cho các thế hệ mai sau và các thế hệ sau này thay nhau gìn giữ đất nước và phát triển đất nước. Nhà thơ khẳng định vai trò của nhân dân trong việc gìn giữ những truyền thống văn hóa để làm nên một đất nước điệu nhẹ nhàng linh hoạt khi thì thủ thỉ khi thì trang nghiêm sử dụng tốt những chất liệu văn hóa, dân gian và có sự hòa quyện của chính luận và trữ tình đi sâu vào trong tâm trí của người đọc, phần hai của đoạn trích Đất nước không chỉ lí định nghĩa Đất nước mà còn thể hiện quan niệm của tác giả về tư tưởng Đất nước của nhân nước của Nguyễn Khoa Điềm mang đến những quan niệm, cảm nhận mới mẻ về đất nước. Bên cạnh việc khám phá những nét mới mẻ này qua bài Phân tích phần 2 đoạn trích Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm, các em còn có thể tham khảo thêm các bài văn hay lớp 12 khác như phân tích Nét mới trong cảm nhận về Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm, Vẻ đẹp của hình tượng đất nước trong bài thơ đất nước của Nguyễn Khoa Điềm, Bình giảng bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm, Phân tích 9 câu đầu bài thơ Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm để mở rộng vốn hiểu biết của mình.
Đề bài Phân tích phần 2 đoạn trích Đất Nước của Nguyễn Khoa ĐiềmCó thể bạn quan tâm Dàn ý nghị luận xã hội Facebook là con dao hai lưỡi với giới trẻ Trong bài Ai đặt tên cho dòng sông, sông Hương khi chảy vào thành phố có nét đặc trưng gì? Bộ đề thi học kì 2 môn Hóa học lớp 12 năm 2020 – 2021 Suy nghĩ về câu nói Bạn đừng nên chờ đợi những bất ngờ của cuộc sống… Bàn về truyền thống tôn sư trọng đạo Bạn Đang Xem Phân tích phần 2 đoạn trích Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm Văn mẫu phân tích phần 2 của bài Đất nước chọn lọc 1. Mở bài – Giới thiệu tác giả– Giới thiệu sơ qua về tác phẩm 2. Thân bài * Khái quát qua về phần 1 đất nước được cảm nhận qua phương diện lịch sử, chiều sâu không gian và thời gian– Đất nước có từ bao giờ ?– Định nghĩa về đất nước Xem Thêm Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu ngắn gọn, hay nhất 23 Mẫu* Phần hai Đất nước của nhân dân– Tất cả những gì của đất nước không chỉ là của thiên nhiên tạo ra mà là những phẩm chất tốt là một phần máu thịt của những người dân– Tình yêu thương sự thủy chung son sắc mà ta có “hòn Trống” “hòn Mái”– Nhờ có truyền thống hiếu học mà ta có “núi Bút” “non Nghiên”– Nhờ có tình yêu quê hương đất nước tinh thần bất khuất, lòng dũng cảm mà ta có những di tích lịch sử về quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước…Còn tiếp >> Xem chi tiết Dàn ý Phân tích phần 2 của bài thơ Đất nước tại đây. II. Bài văn mẫu Phân tích phần 2 đoạn trích Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm Chuẩn Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ trẻ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, những sáng tác của ông nổi bật với phong cách thơ đậm chất chính luận và trữ tình với cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng. Trường ca “Mặt đường khát vọng” tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm, tác phẩm được sáng tác vào năm 1971 tại chiến khu Trị Thiên nhằm mục đích thứ tỉnh thanh niên đô thị vùng tạm chiến miền Nam về sứ mệnh với cuộc chiến chống Mỹ. Đoạn trích “Đất nước” nằm trong chương năm của đoạn Trường ca và một trong những đoạn hay nhất của tác phẩm viết về đất nước. Mở đầu đoạn trích tác giả đã có cảm nhận mới mẻ về quá trình hình thành đất nước. Đất nước hình thành một cách bình dị gần gũi và gắn bó với cuộc sống hàng ngày, đó là những câu truyện cổ tích, hay những câu ca dao, những phong tục của người dân, đất nước. Trong khổ thơ thứ hai, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện cách cảm nhận mới lạ mà cũng quá đỗi bình dị về hai tiếng Đất nước. Đất nước là gì? Đất nước là những thứ gần gũi với chúng ta, là con đường ta đi học là lớp học chúng ta ngồi là bến nước em tắm là cây đa giếng nước là sân đình làng là không gian riêng cho đôi lứa yêu nhau. Đất nước còn là sự hòa quyện cá nhân với cá nhân với cộng đồng, đất nước là sự hòa quyện giữa tình yêu đôi lứa và tình yêu tổ quốc. Đất nước là những truyền thống đẹp là nơi gần gũi với mỗi con người chúng ta, đất nước là máu xương là huyết hệ, là thân thể ruột thịt, là những gì ta bảo vệ dù cho có phải hi sinh tất cả. Theo tác giả Nguyễn Khoa Điềm, nhân dân là chủ nhân của đất nước là người gìn giữ bảo vệ và xây dựng đất nước. Để làm sáng tỏ tư tưởng đó tác giả đã xem xét thật kỹ các tầng địa lí, lịch sử, văn hóa đất nước để chứng minh được nhân dân là người làm ra đất nước ở không gian địa lý. Nguyễn Khoa Điềm đã ngắm nhìn đất nước qua những danh lam thắng cảnh trải dài khắp đất nước. Tất cả các địa danh đó đều gắn liền với những di tích lịch sử một sự thật mà lịch sử đã chứng kiến. Nói cách khác đấy chính là những huyền thoại những sự tích sự thật lịch sử về nội dung đã làm lên địa danh đó biến chúng trở thành những danh lam thắng cảnh những di tích lịch sử văn hóa được mọi người thừa nhận và biết đến nó, là người vợ nhớ người chồng đã lên núi “Vọng Phu”, là những vợ chồng yêu nhau ghép lên hòn Trống Mái, những người học trò nghèo đã tạo nên những núi Bút non Nghiên hay những Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm đã đóng góp công sức tạo lên những địa danh mang tên mình. Xem Thêm Nghị luận xã hội về môi trường biển qua hiện tượng cá chết hàng loạtTrong cảm nhận của nhà thơ mỗi danh lam thắng cảnh không chỉ là nét vẽ tô điểm cho đất nước hình chữ “S” của chúng ta mà còn là ẩn chứa trong mấy ngàn năm cho sự thủy chung tình nghĩa vợ chồng, tình thần yêu nước truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm ý thức cội nguồn biết ơn những người đi trước những người có công với đất nước, tinh thần hiếu học ý chí vượt qua khó khăn gian khổ, tinh thần xả thân vì cộng đồng. Khai thác đất nước ở phương diện địa lí tác giả không chỉ cảm nhận đất nước trù phú mà cảm nhận nhiều miền đất nhiều địa danh với những cái tên dân giã. Đặc biệt nhà thơ không chỉ ngắm đất nước ở hình dáng bên ngoài mà còn nhìn sâu vào bên trong để phát hiện chính những người dân là những người làm nên những địa danh đó để từ đó tác giả đi đến kết luận mang tính khái quát. Những danh lam thắng cảnh nổi tiếng khắp miền tổ quốc trên đều là do nhân dân tạo ra, đều là sự kết tinh từ bao công sức của những con người bình thường vô danh. Hay nói cách khác nhân dân chính là người tạo ra đất nước từ mọi phương diện địa lí. Với cấu trúc quy nạp nghệ thuật liệt kê động từ “góp” được lặp lại nhiều lần nhà thơ khẳng định công sức lao động làm nên những địa danh ấy. Tác giả còn khai thác trên phương diện lịch sử tác giả đã nhìn vào bốn nghìn năm lịch sử của nước ta để thấy nhân dân là những người cần cù trong lao động, anh hùng trong chiến đấu, trong bốn nghìn năm lịch sử có những mốc son chói lọi do các vị anh hùng như Nguyễn Trãi, Hưng Đạo Đại Vương, Nguyễn Huệ… không chỉ những anh hùng nổi tiếng tác giả còn nói đến sự hi sinh âm thần của những người vô danh họ có thể là những anh lính họ hi sinh tuổi thanh xuân để bảo vệ đất nước họ đã nằm lại chiến trường họ không tên không tuổi nhưng họ cống hiến hết mình cho tổ quốc, hay là những người ngày đêm hăng say lao động sản xuất. Họ làm nên đất nước bằng cánh chuyền cho ta những giá trị vật chất, tinh thần bằng lúa gạo, tiếng nói, ngọn lửa, bản sắc văn hóa dân tộc. Họ là những người đấu tranh chống giặc ngoại xâm để tạo dựng chủ quyền xây dựng nền móng cho các thế hệ mai sau và các thế hệ sau này thay nhau gìn giữ đất nước và phát triển đất nước. Nhà thơ khẳng định vai trò của nhân dân trong việc gìn giữ những truyền thống văn hóa để làm nên một đất nước đẹp. Giọng điệu nhẹ nhàng linh hoạt khi thì thủ thỉ khi thì trang nghiêm sử dụng tốt những chất liệu văn hóa, dân gian và có sự hòa quyện của chính luận và trữ tình đi sâu vào trong tâm trí của người đọc, phần hai của đoạn trích Đất nước không chỉ lí định nghĩa Đất nước mà còn thể hiện quan niệm của tác giả về tư tưởng Đất nước của nhân dân. ———————HẾT—————— Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm mang đến những quan niệm, cảm nhận mới mẻ về đất nước. Bên cạnh việc khám phá những nét mới mẻ này qua bài Phân tích phần 2 đoạn trích Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm, các em còn có thể tham khảo thêm các bài văn hay lớp 12 khác như phân tích Nét mới trong cảm nhận về Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm, Vẻ đẹp của hình tượng đất nước trong bài thơ đất nước của Nguyễn Khoa Điềm, Bình giảng bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm, Phân tích 9 câu đầu bài thơ Đất nước – Nguyễn Khoa Điềm để mở rộng vốn hiểu biết của mình. Nguồn Danh mục Lớp 12
Có phải bạn đang tìm kiếm chủ đề về => Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 phải không? Nếu đúng như vậy thì mời bạn xem nó ngay tại đây. Xem thêm các bài tập khác tại đây => Blog Video về Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 Wiki về Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 - Hãy phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Bôi đoạn 2 để thấy được những phát hiện độc đáo và gần gũi của nhà thơ về hình ảnh đất nước. Khai mạc Giới thiệu tác giả và tác phẩm của ông Đất nước là đề tài mang lại nhiều cảm hứng cho các nhà thơ, nhất là trong thời kỳ độc lập dân tộc bị giặc ngoại xâm uy hiếp. Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Bôi đoạn 2 Có thể thấy nhận thức sâu sắc của thế hệ trẻ Việt Nam trong thời kỳ chống Mỹ. Nhận thức này chính là điểm tựa để mỗi người suy ngẫm về tình yêu, đất nước, trách nhiệm với đất nước. Đoạn trích “Đất nước” nằm trong chương V của sử thi “Mặt phố khát vọng” và được coi là đoạn hay nhất của sử thi này. ma thuật Thân hình Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Bôi đoạn 2 theo luận điểm Luận điểm 1 Thời đất nước ra đời Về hình tượng đất nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm, Trần Đình Sử cho rằng đó là “đất nước của nhân dân”. Và ông gọi bài thơ Đất nước là bài thơ chính luận, vì bài thơ viết về đất nước và con người. Trong đoạn trích “Đất nước”, Nguyễn Khoa Điềm đưa ra quan niệm về đất nước vừa quen vừa lạ. Nhưng ông không chỉ giải thích đất nước, con người là gì mà còn gửi gắm tình cảm sâu sắc của mình đối với đất nước, con người. Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Bôi đoạn 2 Có thể thấy, sự kết hợp của hai phương diện này đã gắn kết chất trữ tình và chất chính luận trong bài thơ. Mỗi khổ thơ nhỏ trong đoạn trích đều nhằm giải thích và trả lời những câu hỏi về đất nước, những câu hỏi được liên kết chặt chẽ và logic. Mở đầu bằng câu hỏi về thời gian, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm muốn đưa người đọc ngược về quá khứ, tìm hiểu về lịch sử đất nước, về thời khai sinh ra đất nước Khi chúng ta lớn lên, đất nước đã có Đất nước ở “một thời, ngày xưa…” mẹ tôi thường nói với tôi Đất nước bắt đầu từ miếng trầu bà ăn Đất nước lớn lên khi dân tộc biết trồng tre đánh giặc. Tóc mẹ vén sau đầu Cha mẹ thương nhau gừng cay muối mặn. Kèo, cột sang tên… Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Bôi đoạn 2 Chúng ta thấy, trong câu thơ này chúng ta thấy có sự xuất hiện của rất nhiều trạng từ chỉ thời gian, “một thời, trong quá khứ”, “bây giờ”, “từ ngày đó”. Và gắn liền với những mốc thời gian này là “miếng trầu bà ăn nem”. Tức là đất nước đã có từ lâu đời, từ xa xưa, trong phong tục tập quán của dân gian. Và gần hơn, đất nước trong tình yêu thương của từng gia đình nhỏ, trong từng hạt gạo. Sau khi giải thích các câu hỏi để xác định tình yêu và đất nước, Nguyễn Khoa Điềm hỏi một câu hỏi quen thuộc về một thứ gắn liền với đời sống con người, “Trái đất là gì?” Chúng tôi biết đây không phải là một câu hỏi mới, và không phải Nguyễn Khoa Điềm là người hỏi đầu tiên. Trong dân gian, trong các lĩnh vực lịch sử, địa lý và dân tộc học, “đất” được xác định. Như trong văn học cổ, người ta cũng đã đưa ra câu trả lời cho câu hỏi “quốc gia là gì?”. Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Bôi đoạn 2 chúng ta thấy rõ hơn những nhận xét của Nguyễn Khoa Điềm về “đất” Đất là nơi bạn đến trường Nước là nơi tôi tắm Đất nước là nơi chúng ta gặp nhau Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ. Qua những câu thơ trên ta thấy đất nước hiện lên thật bình dị nhưng cũng thật độc đáo. Đất nước được xác định cũng thật trữ tình và hấp dẫn người đọc. Nhưng ở đây, đất nước không chỉ viết cho những người yêu nhau, mà nhà thơ viết cho tất cả mọi người. Đất Nước được Nguyễn Khoa Điềm thuyết minh rất dài, rất cụ thể nhưng cũng rất giản dị, hợp lí và vô cùng thuyết phục. Những kiến giải này được nhà thơ dựa trên hai trục không gian và thời gian. Đó là “thời gian dài” và “không gian vô lượng”. Và giữa không gian bao la và trường tồn ấy, đất nước hiện lên thật to lớn, hùng vĩ qua hình ảnh “chim phượng hoàng bay về núi bạc – cá vuốt nước biển”. Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Bôi đoạn 2 Ta thấy không gian đất nước hiện lên thật hùng vĩ nhưng cũng thật trữ tình. Và ở những câu thơ sau, Nguyễn Khoa Điềm đã giải thích định nghĩa về đất nước từ góc độ truyền thuyết cổ Đất là nơi Chim đến Nước là nơi Rồng sinh sống. Hai câu thơ dựa trên sự tích Lạc Long Quân và Âu Cơ, cha và mẹ của đồng bào ta. Lạc Long Quân và Âu Cơ sinh ra dân ta trong bọc trăm trứng, nghĩa nước tạo ra mọi người, mọi người, mọi thế hệ, mọi người sống và cả những người đã chết. ẩn giấu. Nhưng dù là ai, sinh ra ở đâu thì chúng ta cũng đều cúi đầu tưởng nhớ ngày giỗ Tổ. Đất nước luôn ở trong bạn, trong bạn và tất cả chúng ta, trong những người đã khuất, trong những con người hôm nay và các thế hệ mai sau. Tất cả tạo nên một miền quê vừa rộng lớn, vừa thiêng liêng, thân thuộc và luôn chan chứa nghĩa tình. Ở những câu thơ tiếp theo, giọng văn của Nguyễn Khoa Điềm vẫn rất súc tích nhưng cũng đầy tình cảm thân thương. Em ơi, đất nước là máu xương của em Phải biết gắn bó với nhau Phải biết tô thắm hình hài đất nước. Làm cho một đất nước mãi mãi … Những câu thơ trên không khỏi khiến ta liên tưởng đến bài thơ Về đất nước của Chế Lan Viên. Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Bôi đoạn 2 Ở những câu trên ta thấy, nếu với Nguyễn Khoa Điềm, “đất nước là máu xương của mình”, thì phải biết “hóa thân thành hình đất nước”; Chế Lan Viên viết Ôi đất nước ta yêu như máu thịt Chất chính luận trong bài thơ thuyết phục người đọc tin tưởng, còn chất trữ tình khiến người đọc xúc động, say mê. Và chính sự hòa quyện giữa chất chính trị và chất trữ tình trong thơ Nguyễn Khoa Điềm trong cách nói về đất nước đã làm nên sức hấp dẫn của bài thơ. Và những hình ảnh, chi tiết cụ thể trong bài thơ được nâng lên tầm khái quát. Đề 2 Tư tưởng về đất nước của nhân dân qua phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa đoạn 2 Ở phần hai của bài thơ, Nguyễn Khoa Điềm đã có một phát hiện độc đáo khi nói về những nhân tố góp phần tạo nên đất nước. Vợ nhớ chồng cũng góp cho đất nước núi Vọng Phu Những đôi trai gái yêu nhau góp mặt ở hòn Trống Mái. Vó ngựa Thánh Gióng đi qua, nhưng trăm ao đầm vẫn còn Chín mươi chín con voi góp phần xây dựng bờ cõi của các Vua Hùng Những con rồng nằm im trong dòng sông xanh thẳm Chàng sinh viên nghèo đóng góp cho Tổ quốc nhưng núi Bút non Nghiên Con cóc và con gà cùng góp phần đưa Hạ Long trở thành thắng cảnh Những người góp công mang tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm Và ở khắp mọi nơi trên những cánh đồng và những ngọn đồi Không có một hình dạng, một khát vọng, một cách sống Ở đây chúng ta thấy, đất nước hiện ra với nhiều hình ảnh cụ thể. Đó là một đất nước rộng lớn, hùng vĩ, một đất nước có bề dày lịch sử ngàn năm. Nhưng đất nước đó cũng là một thứ gì đó gần gũi và thân thuộc với mọi người. Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Bôi đoạn 2 Qua đây ta thấy, đất nước không của riêng ai, không phải những anh hùng đã làm nên đất nước mà đất nước cũng là của những con người bình thường, những con người vô danh thầm lặng. Tất cả đều tạo cho đất nước một hình hài. Những con người yêu nhau góp phần cho đất nước “Núi Bút, non Nghiên”. Và ngay cả con gà, con cóc cũng góp phần tạo nên Vịnh Hạ Long huyền thoại cho đất nước. Còn những người bình thường thì “Ông Đốc”, “Bà Đen”, “Bà Điểm” cũng đã làm nên những danh thắng cho đất nước. Và từ những phát hiện độc đáo này, Nguyễn Khoa Điềm đã đưa ra một cái nhìn khái quát sâu sắc và xúc động về đất nước Ôi đất nước sau bốn ngàn năm tôi có thể nhìn thấy nó ở khắp mọi nơi Cuộc sống đã biến thành núi và sông của chúng ta Nhưng đây chưa phải là đoạn kết của bài thơ, cũng không phải là đoạn kết của những suy nghĩ, cảm xúc về đất nước. Bởi dường như, đất nước hiện diện ở bất cứ đâu, trong bất cứ điều gì chúng ta nói đến, từ những người con trai ra trận cho đến những cô gái ở nhà nuôi con khôn lớn. Mà nhiều người trong số họ đã trở thành anh hùng. Họ sống và chết Đơn giản và bình tĩnh Không ai nhớ tên Nhưng họ đã làm cho Đất nước Tuy nhiên, đất nước là của tất cả mọi người, đất nước không chỉ được tạo nên bởi những con người “sống chết mặc bay”. Nhưng ở đây tác giả cũng bày tỏ lòng biết ơn đối với những con người vô danh, những người “không ai nhớ tên – nhưng họ đã làm nên Đất Nước”. Họ sống giản dị và làm việc lặng lẽ nhưng mang nhiều ý nghĩa lớn lao. Bởi chính họ đã truyền lại những gì vô cùng quý giá, từ hạt gạo, ngọn lửa đến tiếng nói cho chúng ta. Từ những suy ngẫm đó, Nguyễn Khoa Điềm đã đúc kết rằng Đất nước này là đất nước của muôn dân, đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại, đất nước của cả những anh hùng và những người anh hùng. không có tên. Tất cả họ, bất kể có để lại tên tuổi trong lịch sử, tượng đài hay tấm bia lưu niệm hay không, đều đã đem lại cho đất nước một cuộc sống bình dị, nghĩa tình, làm nên một đất nước anh hùng trường tồn. bao la, rộng lớn cả về thời gian và không gian. Kết luận khi phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa đoạn 2 Đoạn trích “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm cho ta thấy một đất nước rộng lớn, đa chiều được thể hiện qua vốn tri thức phong phú của nhà thơ. Đồng thời, phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Bôi đoạn 2 Ta thấy tác phẩm này là sự tổng kết những trải nghiệm của nhà thơ trong thời gian bị giam cầm trong nhà tù của quân Mỹ ngụy và khi tham gia phong trào học sinh ở Huế. Bằng tất cả sự chân thành và suy tư sâu sắc, Nguyễn Khoa Điềm gửi đến người đọc những cảm nhận riêng, độc đáo và gần gũi về đất nước. Đặc biệt, đây không chỉ là cảm xúc của nhà thơ mà còn là tiếng nói đại diện cho cả một thế hệ thanh niên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước khi nói về đất nước. Về nghệ thuật, “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm là sự kết hợp hài hòa giữa lối viết chính luận và chất tự sự trong thơ. Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn [rule_3_plain] Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 để thấy những phát hiện độc đáo mà gần gũi của nhà thơ về hình ảnh đất nước. Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn Mở bài Giới thiệu tác giả, tác phẩm Đất nước là đề tài mang đến nhiều cảm hứng cho người thi nhân, đặc biệt là giai đoạn nền độc lập dân tộc bị đe dọa bởi giặc ngoại xâm. Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 ta thấy được nhận thức sâu sắc của thế hệ thanh niên Việt Nam thời kỳ chống Mỹ. Nhận thức này chính là điểm tựa để mỗi người suy ngẫm về tình yêu, đất nước, trách nhiệm với đất trích “Đất nước” nằm ở chương V của trường ca “Mặt đường khát vọng” và được xem là phần hay nhất của trường ca bài Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 theo luận điểm Luận điểm 1 Thời điểm đất nước ra đời Đối với hình ảnh đất nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm, Trần Đình Sử cho rằng đó là “đất nước của nhân dân”. Và ông gọi bài thơ “Đất nước” là bài thơ chính luận, vì bài thơ bàn về đất nước và nhân đoạn trích “Đất nước”, Nguyễn Khoa Điềm đưa ra những khái niệm về đất nước vừa quen vừa lạ. Nhưng ông không chỉ lí giải đất nước, nhân dân là gì mà còn gửi gắm tình cảm sâu nặng dành cho đất nước, đối với nhân dân. Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 ta thấy, việc kết hợp giữa hai phương diện này đã mang đến cho bài thơ chất trữ tình và chất chính luận thấm nhuần cùng nhau. Mỗi khổ thơ nhỏ trong đoạn trích đều hướng đến lí giải, trả lời những câu hỏi về đất nước, mà những câu hỏi đều có liên kết với nhau chặt chẽ, hợp đầu với câu hỏi về thời gian, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm muốn đưa độc giả trở về quá khứ, để tìm hiểu về lịch sử của đất nước, về thời điểm mà đất nước ra đời Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồiĐất Nước có trong những cái “ngày xửa, ngày xưa…” mẹ thường hay kểĐất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ănĐất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặcTóc mẹ thì bới sau đầuCha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặnCái kèo, cái cột thành tên…Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 ta thấy, trong đoạn thơ này ta thấy xuất hiện nhiều trạng từ chỉ thời gian, “ngày xửa, ngày xưa”, “bây giờ”, “từ ngày đó”. Và gắn liền với những mốc thời gian này là “miếng trầu bà ăn”. Nghĩa là đất nước đã có từ lâu đời, từ xa xưa, trong phong tục tập quán văn hóa dân gian. Và gần hơn, đất nước có trong tình yêu của mỗi gia đình nhỏ, trong cả từng hạt khi lí giải cho các câu hỏi để xác định tình yêu và đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đặt câu hỏi quen thuộc về một thứ gắn liền với đời sống con người, “Đất là gì?” Ta biết đây không phải là một câu hỏi mới mẻ và cũng không phải Nguyễn Khoa Điềm là người đầu tiên đưa ra. Mà trong văn học dân gian, trong các địa hạt lịch sử, địa lý, dân tộc học, “đất” đã được định nghĩa. Như trong văn học từ xưa người ta cũng đã đi tùm câu trả lời cho câu hỏi “đất nước là gì?”. Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 , ta càng thấy rõ những nhận định của Nguyễn Khoa Điềm về “đất”Đất là nơi anh đến trườngNước là nơi em tắmĐất Nước là nơi ta hò hẹnĐất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ những câu thơ trên ta thấy, đất nước hiện lên thật giản dị mà cũng độc đáo biết bao. Đất nước được định nghĩa cũng thật trữ tình và lôi cuốn người đọc. Nhưng ở đây, đất nước không chỉ được viết cho những người yêu nhau, mà nhà thơ viết cho tất cả mọi người. Đất nước được Nguyễn Khoa Điềm kiến giải rất dài, rất cụ thể nhưng cũng rất đơn giản, có lý và vô cùng thuyết phục. Những kiến giải này được nhà thơ dựa trên hai trục không gian và thời gian. Đó là “thời gian đằng đẵng” và “không gian mênh mông”. Và giữa không gian bao la, thời gian dài rộng ấy, đất nước hiện ra thật to lớn, hùng vĩ qua hình ảnh “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc – con cá ngư ông móng nước biển khơi”.Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 ta thấy không gian đất nước hiện lên thật hùng vĩ mà rất trữ tình. Và ở những câu thơ tiếp theo, Nguyễn Khoa Điềm cắt nghĩa định nghĩa về đất nước từ góc độ những truyền thuyết thời xa xưaĐất là nơi Chim vềNước là nơi Rồng câu thơ dựa trên truyền thuyết về Lạc Long Quân và Âu Cơ, người cha người mẹ của đồng bào ta. Lạc Long Quân và Âu Cơ đẻ ra đồng bào ta trong bọc trăm trứng, nghĩa là đất nước tạo ra tất cả mọi người, là tất cả mọi người, tất cả thế hệ, là tất cả những người đang sống và cả những người đã khuất. Nhưng dù bạn là ai, sinh ra ở đâu thì tất cả chúng ta đều cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ. Đất nước luôn ở trong anh, trong em và trong tất cả chúng ta, trong những người đã khuất, trong những người hôm nay và những thế hệ mai sau. Tất cả tạo nên một đất nước vừa rộng lớn thiêng liêng, vừa gần gũi quen thuộc và bao giờ cũng tròn vẹn nghĩa câu thơ tiếp theo, giọng thơ của Nguyễn Khoa Điệm vẫn thật khúc chiết nhưng cũng chứa chan bao tình cảm đằm ơi đất nước là máu xương của mìnhPhải biết gắn bó san sẻPhải biết hóa thân cho dáng hình xứ sởLàm nên đất nước muôn đời…Những câu thơ trên không khỏi khiến ta nghĩ về câu thơ của Chế Lan Viên viết về đất nước. Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 ở những câu trơ trên ta thấy, nếu với Nguyễn Khoa Điềm, “đất nước là máu xương của mình” nên chúng ta phải biết “hóa thân cho dáng hình xứ sở”; thì Chế Lan Viên viếtÔi Tổ quốc ta yêu như máu thịtChất chính luận trong bài thơ thuyết phục người đọc tin, còn chất trữ tình lại khiến người đọc xúc động và nảy nở yêu thương. Và chính sự hòa quyện của chất chính luận và trữ tình trong thơ Nguyễn Khoa Điềm trong cách nói về đất nước đã tạo nên sức hấp dẫn cho bài thơ. Và những hình ảnh, chi tiết cụ thể trong bài thơ được nâng lên tầm khái quát. Luận điểm 2 Tư tưởng đất nước nhân dân qua phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 Trong phần thứ hai của bài thơ, Nguyễn Khoa Điềm đưa ra một phát hiện độc đáo khi nói về những yếu tố góp thành đất người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng PhuCặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống MáiGót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lạiChín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng VươngNhững con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳmNgười học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non NghiênCon cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnhNhững người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà ĐiểmVà ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãiChẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông chaỞ đây ta thấy, đất nước hiện lên với nhiều hình ảnh cụ thể. Đó là một đất nước bao la, hùng vĩ, một đất nước với nền văn hiền nghìn năm lịch sử. Nhưng đất nước ấy cũng là những điều gần gũi, quen thuộc với tất cả mọi người. Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 đến đây ta thấy, đất nước không phải của riêng ai, không phải những người anh hùng mới có công làm nên đất nước, mà đất nước còn là một phần của những con người bình thường, những con người vô danh lặng lẽ. Tất cả họ đều góp cho đất nước một dáng người yêu nhau thì góp cho đất nước “núi Bút, non Nghiên”. Và ngay cả những con gà, con cóc cũng góp phần góp cho đất nước vịnh Hạ Long huyền thoại. Còn những người dân bình thường, nào “ông Đốc”, “bà Đen”, “bà Điểm” cũng đều làm nên những địa danh nổi tiếng cho đất từ những phát hiện độc đáo này, Nguyễn Khoa Điềm đã khái quát vê đất nước thật sâu sắc và đầy xúc độngÔi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấyNhững cuộc đời đã hóa núi sông taNhưng đây không phải là kết thúc bài thơ, cũng không phải kết thúc cho những suy ngẫm, cảm xúc về đất nước. Bởi dường như, đất nước hiện diện ở bất cứ đâu, ở bất kì điều gì ta nói đến, từ những người con trai ra trận đến những người con gái ở nhà nuôi dạy con cái. Mà nhiều người trong số họ đã trở thành anh đã sống và chếtGiản dị và bình tâmKhông ai nhớ mặt đặt tênNhưng họ đã làm ra Đất NướcTuy nhiên đất nước là tất cả mọi người, đất nước không chỉ được tạo nên bởi những lớp người “đã sống và chết”. Mà ở đây tác giả còn thể hiện lòng biết ơn đối với những người vô danh, những người “không ai nhớ mặt đặt tên – nhưng họ đã làm ra Đất Nước”. Họ đã sống giản dị và làm việc thầm lặng nhưng lại mang đến ý nghĩa lớn lao. Bởi chính họ đã truyền lại điều quý giá biết bao, từ hạt lúa, ngọn lửa đến tiếng nói cho những suy ngẫm này, Nguyễn Khoa Điềm đã kết luận rằng Đất Nước này là đất nước của tất cả mọi người, đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại, đất nước của cả những anh hùng và cả những người vô danh. Tất cả họ dù để lại một dòng tên trong lịch sử, một tượng đài hay một tấm bia lưu danh hay không đều mang lại cho đất nước một cuộc đời bình dị mà ý nghĩa lớn lao, làm nên một đất nước trường tồn và hùng vĩ, rộng lớn cả về thời gian và không gian. Kết luận khi phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 Đoạn trích “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm đã cho ta thấy một đất nước rộng lớn, đa chiều được thể hiện bằng vốn hiểu biết phóng phú của nhà thơ. Đồng thời, phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 ta thấy tác phẩm này là đúc kết những trải nghiệm của nhà thơ trong khoảng thời gian ông bị tù đày trong nhà tù của quân Mỹ ngụy và thời điểm tham gia phong trào sinh viên ở tất cả lòng chân thành và suy ngẫm sâu sắc, Nguyễn Khoa Điềm gửi gắm tới bạn đọc những cảm nghĩ riêng mà độc đáo, gần gũi về đất nước. Đặc biệt, đây không phải chỉ là cảm nhận của riêng nhà thơ mà còn là tiếng nói đại diện cho cả một thế hệ thanh niên trong kháng chiến chống Mỹ khi nói về đất nước. Về mặt nghệ thuật, “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm là sự kết hợp hài hòa của lối viết chính luận và chất trữ trình trong thơ. Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn Mở bài Giới thiệu tác giả, tác phẩm Đất nước là đề tài mang đến nhiều cảm hứng cho người thi nhân, đặc biệt là giai đoạn nền độc lập dân tộc bị đe dọa bởi giặc ngoại xâm. Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 ta thấy được nhận thức sâu sắc của thế hệ thanh niên Việt Nam thời kỳ chống Mỹ. Nhận thức này chính là điểm tựa để mỗi người suy ngẫm về tình yêu, đất nước, trách nhiệm với đất trích “Đất nước” nằm ở chương V của trường ca “Mặt đường khát vọng” và được xem là phần hay nhất của trường ca bài Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 theo luận điểm Luận điểm 1 Thời điểm đất nước ra đời Đối với hình ảnh đất nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm, Trần Đình Sử cho rằng đó là “đất nước của nhân dân”. Và ông gọi bài thơ “Đất nước” là bài thơ chính luận, vì bài thơ bàn về đất nước và nhân đoạn trích “Đất nước”, Nguyễn Khoa Điềm đưa ra những khái niệm về đất nước vừa quen vừa lạ. Nhưng ông không chỉ lí giải đất nước, nhân dân là gì mà còn gửi gắm tình cảm sâu nặng dành cho đất nước, đối với nhân dân. Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 ta thấy, việc kết hợp giữa hai phương diện này đã mang đến cho bài thơ chất trữ tình và chất chính luận thấm nhuần cùng nhau. Mỗi khổ thơ nhỏ trong đoạn trích đều hướng đến lí giải, trả lời những câu hỏi về đất nước, mà những câu hỏi đều có liên kết với nhau chặt chẽ, hợp đầu với câu hỏi về thời gian, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm muốn đưa độc giả trở về quá khứ, để tìm hiểu về lịch sử của đất nước, về thời điểm mà đất nước ra đời Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồiĐất Nước có trong những cái “ngày xửa, ngày xưa…” mẹ thường hay kểĐất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ănĐất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặcTóc mẹ thì bới sau đầuCha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặnCái kèo, cái cột thành tên…Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 ta thấy, trong đoạn thơ này ta thấy xuất hiện nhiều trạng từ chỉ thời gian, “ngày xửa, ngày xưa”, “bây giờ”, “từ ngày đó”. Và gắn liền với những mốc thời gian này là “miếng trầu bà ăn”. Nghĩa là đất nước đã có từ lâu đời, từ xa xưa, trong phong tục tập quán văn hóa dân gian. Và gần hơn, đất nước có trong tình yêu của mỗi gia đình nhỏ, trong cả từng hạt khi lí giải cho các câu hỏi để xác định tình yêu và đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đặt câu hỏi quen thuộc về một thứ gắn liền với đời sống con người, “Đất là gì?” Ta biết đây không phải là một câu hỏi mới mẻ và cũng không phải Nguyễn Khoa Điềm là người đầu tiên đưa ra. Mà trong văn học dân gian, trong các địa hạt lịch sử, địa lý, dân tộc học, “đất” đã được định nghĩa. Như trong văn học từ xưa người ta cũng đã đi tùm câu trả lời cho câu hỏi “đất nước là gì?”. Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 , ta càng thấy rõ những nhận định của Nguyễn Khoa Điềm về “đất”Đất là nơi anh đến trườngNước là nơi em tắmĐất Nước là nơi ta hò hẹnĐất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ những câu thơ trên ta thấy, đất nước hiện lên thật giản dị mà cũng độc đáo biết bao. Đất nước được định nghĩa cũng thật trữ tình và lôi cuốn người đọc. Nhưng ở đây, đất nước không chỉ được viết cho những người yêu nhau, mà nhà thơ viết cho tất cả mọi người. Đất nước được Nguyễn Khoa Điềm kiến giải rất dài, rất cụ thể nhưng cũng rất đơn giản, có lý và vô cùng thuyết phục. Những kiến giải này được nhà thơ dựa trên hai trục không gian và thời gian. Đó là “thời gian đằng đẵng” và “không gian mênh mông”. Và giữa không gian bao la, thời gian dài rộng ấy, đất nước hiện ra thật to lớn, hùng vĩ qua hình ảnh “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc – con cá ngư ông móng nước biển khơi”.Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 ta thấy không gian đất nước hiện lên thật hùng vĩ mà rất trữ tình. Và ở những câu thơ tiếp theo, Nguyễn Khoa Điềm cắt nghĩa định nghĩa về đất nước từ góc độ những truyền thuyết thời xa xưaĐất là nơi Chim vềNước là nơi Rồng câu thơ dựa trên truyền thuyết về Lạc Long Quân và Âu Cơ, người cha người mẹ của đồng bào ta. Lạc Long Quân và Âu Cơ đẻ ra đồng bào ta trong bọc trăm trứng, nghĩa là đất nước tạo ra tất cả mọi người, là tất cả mọi người, tất cả thế hệ, là tất cả những người đang sống và cả những người đã khuất. Nhưng dù bạn là ai, sinh ra ở đâu thì tất cả chúng ta đều cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ. Đất nước luôn ở trong anh, trong em và trong tất cả chúng ta, trong những người đã khuất, trong những người hôm nay và những thế hệ mai sau. Tất cả tạo nên một đất nước vừa rộng lớn thiêng liêng, vừa gần gũi quen thuộc và bao giờ cũng tròn vẹn nghĩa câu thơ tiếp theo, giọng thơ của Nguyễn Khoa Điệm vẫn thật khúc chiết nhưng cũng chứa chan bao tình cảm đằm ơi đất nước là máu xương của mìnhPhải biết gắn bó san sẻPhải biết hóa thân cho dáng hình xứ sởLàm nên đất nước muôn đời…Những câu thơ trên không khỏi khiến ta nghĩ về câu thơ của Chế Lan Viên viết về đất nước. Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 ở những câu trơ trên ta thấy, nếu với Nguyễn Khoa Điềm, “đất nước là máu xương của mình” nên chúng ta phải biết “hóa thân cho dáng hình xứ sở”; thì Chế Lan Viên viếtÔi Tổ quốc ta yêu như máu thịtChất chính luận trong bài thơ thuyết phục người đọc tin, còn chất trữ tình lại khiến người đọc xúc động và nảy nở yêu thương. Và chính sự hòa quyện của chất chính luận và trữ tình trong thơ Nguyễn Khoa Điềm trong cách nói về đất nước đã tạo nên sức hấp dẫn cho bài thơ. Và những hình ảnh, chi tiết cụ thể trong bài thơ được nâng lên tầm khái quát. Luận điểm 2 Tư tưởng đất nước nhân dân qua phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 Trong phần thứ hai của bài thơ, Nguyễn Khoa Điềm đưa ra một phát hiện độc đáo khi nói về những yếu tố góp thành đất người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng PhuCặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống MáiGót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lạiChín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng VươngNhững con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳmNgười học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non NghiênCon cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnhNhững người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà ĐiểmVà ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãiChẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông chaỞ đây ta thấy, đất nước hiện lên với nhiều hình ảnh cụ thể. Đó là một đất nước bao la, hùng vĩ, một đất nước với nền văn hiền nghìn năm lịch sử. Nhưng đất nước ấy cũng là những điều gần gũi, quen thuộc với tất cả mọi người. Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 đến đây ta thấy, đất nước không phải của riêng ai, không phải những người anh hùng mới có công làm nên đất nước, mà đất nước còn là một phần của những con người bình thường, những con người vô danh lặng lẽ. Tất cả họ đều góp cho đất nước một dáng người yêu nhau thì góp cho đất nước “núi Bút, non Nghiên”. Và ngay cả những con gà, con cóc cũng góp phần góp cho đất nước vịnh Hạ Long huyền thoại. Còn những người dân bình thường, nào “ông Đốc”, “bà Đen”, “bà Điểm” cũng đều làm nên những địa danh nổi tiếng cho đất từ những phát hiện độc đáo này, Nguyễn Khoa Điềm đã khái quát vê đất nước thật sâu sắc và đầy xúc độngÔi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấyNhững cuộc đời đã hóa núi sông taNhưng đây không phải là kết thúc bài thơ, cũng không phải kết thúc cho những suy ngẫm, cảm xúc về đất nước. Bởi dường như, đất nước hiện diện ở bất cứ đâu, ở bất kì điều gì ta nói đến, từ những người con trai ra trận đến những người con gái ở nhà nuôi dạy con cái. Mà nhiều người trong số họ đã trở thành anh đã sống và chếtGiản dị và bình tâmKhông ai nhớ mặt đặt tênNhưng họ đã làm ra Đất NướcTuy nhiên đất nước là tất cả mọi người, đất nước không chỉ được tạo nên bởi những lớp người “đã sống và chết”. Mà ở đây tác giả còn thể hiện lòng biết ơn đối với những người vô danh, những người “không ai nhớ mặt đặt tên – nhưng họ đã làm ra Đất Nước”. Họ đã sống giản dị và làm việc thầm lặng nhưng lại mang đến ý nghĩa lớn lao. Bởi chính họ đã truyền lại điều quý giá biết bao, từ hạt lúa, ngọn lửa đến tiếng nói cho những suy ngẫm này, Nguyễn Khoa Điềm đã kết luận rằng Đất Nước này là đất nước của tất cả mọi người, đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại, đất nước của cả những anh hùng và cả những người vô danh. Tất cả họ dù để lại một dòng tên trong lịch sử, một tượng đài hay một tấm bia lưu danh hay không đều mang lại cho đất nước một cuộc đời bình dị mà ý nghĩa lớn lao, làm nên một đất nước trường tồn và hùng vĩ, rộng lớn cả về thời gian và không gian. Kết luận khi phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 Đoạn trích “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm đã cho ta thấy một đất nước rộng lớn, đa chiều được thể hiện bằng vốn hiểu biết phóng phú của nhà thơ. Đồng thời, phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 ta thấy tác phẩm này là đúc kết những trải nghiệm của nhà thơ trong khoảng thời gian ông bị tù đày trong nhà tù của quân Mỹ ngụy và thời điểm tham gia phong trào sinh viên ở tất cả lòng chân thành và suy ngẫm sâu sắc, Nguyễn Khoa Điềm gửi gắm tới bạn đọc những cảm nghĩ riêng mà độc đáo, gần gũi về đất nước. Đặc biệt, đây không phải chỉ là cảm nhận của riêng nhà thơ mà còn là tiếng nói đại diện cho cả một thế hệ thanh niên trong kháng chiến chống Mỹ khi nói về đất nước. Về mặt nghệ thuật, “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm là sự kết hợp hài hòa của lối viết chính luận và chất trữ trình trong thơ. Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn [rule_3_plain] Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn Phân tích bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm đoạn 2 để thấy những phát hiện độc đáo mà gần gũi của nhà thơ về hình ảnh đất nước.
Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ ác liệt. Thơ ông có sự kết hợp hài hòa giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng, thể hiện một chiều sâu văn hóa mang đặc trưng của thế hệ các nhà thơ thời kì chống Mĩ cứu nước. Trường ca "Mặt đường khát vọng" là tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp sáng tác của ông. Đoạn trích "Đất nước" nằm ở phần đầu chương 5 của bản trường ca. Đoạn thơ là yêu cầu đề 2. Khổ 2 Cảm nhận đất nước qua không gian địa lí và thời gian lịch sử Nếu như mở đầu Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm khơi nguồn cho tâm hồn người đọc tìm về cội nguồn, để lý giải sự hình thành Đất Nước thì đến đoạn thơ thứ 2, đôi mắt thơ của Nguyễn Khoa Điềm đặt hình ảnh Đất Nước trong chiều rộng của không gian địa lý, trong chiều dài của thời gian lịch sử và trong mối quan hệ gắn bó của mỗi cá nhân a Cảm nhận đất nước qua không gian địa lí "Đất là nơi anh đến trường Nước là nơi em tắm Đất Nước là nơi ta hò hẹn Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm" Cách diễn giải ấy giúp ta hình dung cụ thể Đất Nước là nơi ta lớn lên, học tập và sinh hoạt. Khi tách ra thì Đất Nước gắn với kỷ niệm riêng tư của mỗi người còn khi gộp lại Đất Nước lại sống trong cái ta chung. "Khi ta hò hẹn", đất nước hòa nhập vào một, trở thành không gian hẹn hò, nâng bước và minh chứng cho tình yêu của hai đứa. Nơi trai gái hẹn hò gợi nên những không gian làng quê thanh bình yên ả Mái đình, hàng cau, lũy tre làng, chiếc cầu tre nho nhỏ.. tất cả đều đẹp đều hài hòa và nồng đượm làm sao. Và khi hai đứa yêu nhau thì Đất Nước như cũng sống trong nỗi nhớ thầm của hai đứa Câu thơ "Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm" đậm đà chất dân gian, đặc trưng của văn hóa Việt xưa xa, gợi nhắc cho ta bài ca dao nổi tiếng "Khăn thương nhớ ai". - > Mỗi người chúng ta đều là một phần của Tổ quốc. Hay nói cách khác, đất nước là máu xương, là sự sống của mỗi cá nhân. Đất là nơi "con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc" Nước là nơi "con cá ngư ông móng nước biển khơi - Nếu ở trên ta thấy một Đất Nước nhỏ bé dung dị thì tới những câu thơ này ta lại thấy Đất Nước mang một dáng vẻ kỳ vĩ và lớn lao được đo bằng sải cánh của con chim phượng hoàng bay về núi bạc, được đo bằng sự mênh mông, rộng lớn của biển khơi. Hình ảnh" con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc "," con cá ngư ông móng nước biển khơi "mang phong cách dân ca miền Trung, thẫm đẫm lòng yêu quê hương cả tác giả. Đất Nước mình bình dị, quen thuộc nhưng đôi khi cũng lớn rộng, tráng lệ và kì vĩ vô cùng, nhất là đối với những người đi xa. Dù chim ham trái chín ăn xa, thì cũng giật mình nhớ gốc cây đa lại về. Gia đình Việt Nam là như thế, lúc nào cũng hướng về quê hương, hướng về cội nguồn -> Đất nước là nơi trở về với những tâm hồn thiết tha với quê hương. b Đất nước được cảm nhận xuyên suốt chiều dài lịch sử từ quá khứ, hiện tại đến tương lai " Thời gian đằng đẵng Không gian mênh mông Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ " Đất là nơi Chim về Nước là nơi Rồng ở Lạc Long Quân và Âu Cơ Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng" - Đất Nước trường tồn trong không gian và thời gian Thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông để mãi mãi là nơi dân mình đoàn tụ, là không gian sinh tồn của cộng đồng Việt Nam qua bao thế hệ. - Nhà thơ nhấn mạnh dân tộc Việt Nam là nơi "đất lành chim đậu", nơi có rồng thiêng "thăng long", có cội nguồn lâu đời, gắn với truyền thuyết dân gian mà không một ai trên mảnh đất hình chữ S thân thương này không nhớ. Tất cả dân tộc Việt Nam đều là anh em một nhà, dù có lên rừng hay xuống biển thì nguồn cội từ xa xưa vẫn được đẻ ra từ trong "bọc trứng" -> Nguyễn Khoa Điềm gợi lại truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ, gợi nhắc về giống nòi cao quý của dân tộc ta, vốn là con rồng cháu tiên. -> nhắc nhở mọi người nhớ về cội nguồn của dân tộc. Dù bôn ba chốn nào, người dân Việt Nam cũng đều hướng về đất tổ, nhớ đến dòng giống Rồng Tiên của mình. Nhắc đến chuyện xưa ấy như để khẳng định, cũng là để nhắc nhở "Những ai đã khuất Những ai bây giờ Yêu nhau và sinh con đẻ cái Gánh vác phần người đi trước để lại Dặn dò con cháu chuyện mai sau Hằng năm ăn đâu làm đâu Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ" - "Những ai đã khuất" là những người trong quá khứ - những con người sống giản dị chết bình tâm, những con người đã có công dựng nước và phát triển đất nước. "Những ai bây giờ" là những người trong hiện tại, đang sống và chiến đấu. Tất cả đều ý thức sâu sắc về sứ mệnh "Yêu nhau và sinh con đẻ cái" bảo tồn nòi giống con dân Việt để góp vào một nhiệm vụ to lớn và thiêng liêng "Gánh vác phần người đi trước để lại". Tất cả đều ý thức về tổ tiên và nguồn gốc tổ tiên, không bao giờ được quên cội nguồn dân tộc "Hằng năm ăn đâu làm đâu - Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ". Câu thơ vận dụng sáng tạo câu ca dao "Dù ai đi ngược về xuôi - Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng Ba". Cho nên tự trong bản thân nó đã bao hàm lời nhắc nhở về nguồn gốc, dòng giống Tổ tiên. Hai chữ "cúi đầu" thể hiện niềm thành kính thiêng liêng mà rất đỗi tự hào về nguồn gốc cha ông. Cúi đầu để hướng về lịch sử về những Tổ Hùng Vương đã góp công dựng nên nước nhà Âu Lạc mà nay là nước Việt Nam hùng cường sánh vai bốn bể năm châu. Người Việt dù đi khắp thế giới nhưng trong tâm linh của họ luôn có một ngôi nhà chung để quay về. Đó chính là Quê cha đất Tổ Vua Hùng. Nhà thơ không chỉ cảm nhận đất nước qua không gian địa lí, thời gian lịch sử mà còn đặt trong mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng "Trong anh và em hôm nay Đều có một phần đất nước" Khi hai đứa cầm tay Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm Khi chúng ta cầm tay mọi người Đất nước vẹn tròn, to lớn " - Nguyễn Khoa Điềm khẳng định mối quan hệ mật thiết giữa cá nhân với cộng đồng, đất nước" Trong anh và em "đều" có một phần Đất Nước "với giọng thơ đầy tự hào. + Thứ nhất, đó còn là mối quan hệ gắn kết giữa con người và con người để tạo nên sự hài hòa, liên kết bền chặt từ những cá nhân" Khi hai đứa cầm tay/Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm ". Đại từ nhân xưng thay đổi từ" anh và em "đến" hai đứa "góp phần khẳng định sự gắn kết đôi lứa làm nên sự hài hòa, nồng ấm cho đất nước. + Thứ hai, đó là sự tăng tiến từ sự gắn kết của cá nhân" anh và em "đến tình cảm lứa đôi hai đứa với mọi người khiến cho đất nước trở nên" vẹn tròn, to lớn ". Đây chính là triết lý sâu sắc của Nguyễn Khoa Điềm về mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng và giữa cộng đồng với quê hương, đất nước. Nói một cách dễ hiểu là Nguyễn Khoa Điềm khẳng định nền tảng để tạo nên đất nước" vẹn tròn, to lớn "chính là tự sự tình yêu, ý thức, trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với quê hương đất nước, mối quan hệ bền chặt của tình cảm lứa đôi, gia đình có vững chắc mới tạo nền móng vững vàng cho đất nước. Đồng thời, ý thức, trách nhiệm với đất nước không chỉ dành cho" đất nước "ở hiện tại ở mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng mà đó còn là sự nuôi dưỡng, dành trọn niềm tin cho thế hệ mai sau " Mai này con ta lớn lên Con sẽ mang đất nước đi xa Đến những tháng ngày mơ mộng " - Trong tương lai đó là một đất nước với triển vọng tươi sáng, những thế hệ tương lai được kỳ vọng, được đặt lên vai cái trách nhiệm lớn lên cả về trí tuệ lẫn tầm vóc, để làm nên những điều kỳ diệu cho cả dân tộc cả Đất Nước. Con sẽ đưa Đất Nước đi xa, sánh vai cùng với các cường quốc trên thế giới, đưa Đất Nước trở nên giàu đẹp vững mạnh gấp nhiều lần hôm nay. Sau khi đã định nghĩa một cách rõ ràng Đất Nước cả về không gian và thời gian, cả về địa lý lẫn lịch sử thì Nguyễn Khoa Điềm đã chốt lại bằng những câu thơ rất tha thiết về trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với Đất Nước " Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình Phải biết gắn bó san sẻ Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở Làm nên Đất Nước muôn đời.. " - Lời thơ như là lời tâm tình của người anh với người em, lời tâm tình của chàng trai đối với một người con gái, của thế hệ trước với thế hệ sau. - Đất Nước là một khái niệm trừu tượng, thế nhưng khi so sánh Đất Nước với hình ảnh " máu xương của mình " thì đó lại là một khái niệm cụ thể, hữu hình. Đây cũng là phần nối tiếp trong ý thơ" trong anh và em hôm nay đều có một phần Đất Nước ", thì ở đây Nguyễn Khoa Điềm đã chỉ rõ Đất Nước là máu xương của mỗi con người, đã là phần căn cơ cốt yếu trong mỗi cá nhân, ai cũng phải có. - Điệp từ " phải biết " trong hai câu thơ sau là biểu hiện của một mệnh lệnh, xác định trách nhiệm cho mỗi người, yêu nước không phải là một khái niệm chung chung, một tư tưởng trừu tượng mà yêu nước phải thực hiện bằng hành động. Mỗi con người cần phải biết" gắn bó san sẻ ", đặc biệt phải" biết hóa thân cho dáng hình xứ sở ", dâng cả sự sống, thanh xuân cho Đất Nước, coi trọng Đất Nước hơn cả hạnh phúc riêng của bản thân mình. NT Bằng sự kết hợp của giọng thơ trữ tình – chính luận sâu lắng thiết tha, ngôn ngữ giản dị và cách sử dụng sáng tạo chất liệu văn học văn hóa dân gian, Nguyễn Khoa Điềm đã mang đến cho bạn đọc những cảm nhận mới mẻ đặt bằng cách đặt hình ảnh Đất Nước trong chiều rộng của không gian địa lý, trong chiều dài của thời gian lịch sử và trong mối quan hệ gắn bó của mỗi cá nhân. KB Bằng việc vận dụng sáng tạo hình thức thơ trữ tình - chính luận, thể thơ tự do, giọng thơ biến đổi linh hoạt và sử dụng chất liệu văn hóa dân gian đa dạng qua phong tục tập quán, lối sống, sinh hoạt, ca dao, dân ca, tục ngữ, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã tạo ra một không gian nghệ thuật đặc biệt để làm nổi bật tư tưởng" Đất Nước của Nhân Dân". Qua tư duy mới mẻ của nhà thơ, hình tượng đất nước đã được khám phá ở nhiều phương diện về chiều sâu văn hóa, chiều rộng không gian cũng như chiều dài của thời gian. Bằng chính trải nghiệm của mình, Nguyễn Khoa Điềm đã đánh thức tình yêu quê hương luôn tồn tại trong tâm thức và trái tim hàng triệu con người Việt Nam. Last edited by a moderator 3 Tháng một 2022 nguyễn khoa điềm phân tích thơ đất nước
Nếu như mở đầu Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm khơi nguồn cho tâm hồn người đọc tìm về cội nguồn, để lý giải sự hình thành Đất Nước thì đến đoạn thơ thứ 2, đôi mắt thơ của Nguyễn Khoa Điềm đặt hình ảnh Đất Nước trong chiều rộng của không gian địa lý, trong chiều dài của thời gian lịch sử và trong mối quan hệ gắn bó của mỗi cá nhân. “Đất là nơi anh đến trường Nước là nơi em tắm Đất Nước là nơi ta hò hẹn Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc” Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi” Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục cho thấy cách sử dụng từ, câu linh hoạt sáng tạo của mình khi ở đây, nhà thơ đã chiết tự hai từ Đất Nước để phân tích về linh hồn thẳm sâu bên trong nó. Đất là nơi anh đến trường, nước là nơi em tắm, nghĩa là hình ảnh đất nước hiện lên vô cùng gần gũi, gắn bó khăng khít với cuộc sống của con người. Xưa kia, viết về Đất Nước các nhà thơ thường gọi nó, họa nó bằng những hình ảnh lung linh hùng vĩ, nay Nguyễn Khoa Điềm gợi về đất nước còn là không gian tình tự, nơi gắn kết tình cảm, nơi khơi nguồn và là điểm tựa cho hạnh phúc lứa đôi. Là nơi gửi gắm nỗi nhớ thầm của người con gái, vậy nên vừa lớn lao mà cũng là mảnh kí ức gợi nhớ gợi thương cho tâm hồn bất cứ ai. Hai câu thơ tiếp, Đất Nước lại hiện ra trong những câu ca dao, tục ngữ, để thấy được Đất Nước không chỉ đánh thức ký ức tuổi thơ, mà còn đánh thức cả những miền kí ức văn hóa cộng đồng, nét đẹp dân gian truyền thống của cộng đồng. “Thời gian đằng đẵng Không gian mênh mông Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ Đất là nơi Chim về Nước là nơi Rồng ở Lạc Long Quân và Âu Cơ Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng” Đất Nước là sự hun đúc, là sự kết thành giữa dòng chảy trôi bất tận của thời gian mênh mông, nhưng thời gian ở đây không phải thời gian vô tri, mà là thời gian của lịch sử của văn hóa. Nhắc lại truyền thuyết Lạc Long Quân Âu Cơ, nhắc về ký ức lịch sử văn hóa cộng đồng, và đồng thời cũng là một điểm tựa để gợi về nét đẹp văn hóa văn học dân gian của dân tộc. Đất Nước trong thời gian đằng đẵng, Đất Nước còn trường tồn bất tử trong không gian mênh mông, không gian hùng vĩ. Nhìn Đất Nước trong cả chiều dài thời gian, chiều rộng không gian, Đất Nước còn là sự kết nối những thế hệ đã qua và thế hệ kế tục “Những ai đã khuất Những ai bây giờ Yêu nhau và sinh con đẻ cái Gánh vác phần người đi trước để lại Dặn dò con cháu chuyện mai sau Hằng năm ăn đâu làm đâu Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ” Để tạo nên bề dày văn hóa, lịch sử của Đất Nước, chắc chắn là sự đắp bồi, tiếp nối của biết bao thế hệ cháu con đã ngã xuống, hy sinh vì độc lập dân tộc. Đất Nước sáng mãi trong tâm khảm mỗi người bởi sự hi sinh vĩ đại, lớn lao, bởi tinh thần dân tộc như ngọn lửa trao truyền bao thế hệ. Và vì thế, những người con dân tộc luôn nhắc mình đạo lí Uống nước nhớ nguồn truyền thống Hàng năm, đều nhớ ngày giỗ tổ. Tiếp tục mạch lập luận, nhà thơ nhìn Đất Nước trong cả mối quan hệ của mỗi cá nhân “Trong anh và em hôm nay Đều có một phần Đất Nước Khi hai đứa cầm tay Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm Khi chúng ta cầm tay mọi người Đất nước vẹn tròn, to lớn Mai này con ta lớn lên Con sẽ mang đất nước đi xa Đến những tháng ngày mơ mộng”. Trong anh và em, trong mỗi chúng ta, đều thấm nhuần điệu hồn của Đất Nước. Đất nước vì thế là sự thống nhất giữa cái chung và cái riêng, giữa mỗi cá nhân với tất cả cộng đồng, giữa cái nhỏ bé và cái to lớn, giữa cái gần gũi mộc mạc và cái xa xôi lớn lao. Để từ đó, bắc cây cầu đến trái tim của người đọc, rằng Đất nước ở trong ta chứ không phải ở ngoài ta, và vì thế “Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình Phải biết gắn bó san sẻ Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở Làm nên Đất Nước muôn đời…” Viết về Đất Nước, đó là nguồn cảm hứng bất tận và trong mỗi thời kỳ lịch sử, các nhà thơ, nhà văn lại đằm vào nó điệu hồn của thời đại mình. Ở đây, Nguyễn Khoa Điềm viết Đất Nước với mong muốn thức tỉnh những người chiến sĩ tham gia vào cuộc kháng chiến của dân tộc, để soi sáng, dẫn đường cho họ, thế nhưng giọng thơ của ông không hề mang tính giáo điều mà chan chứa, đằm thắm những nghẹn ngào, như một lời gửi gắm chân thành, như một sự chuyển giao thế hệ. Khiến cho người đọc như phần nào thêm đồng cảm, thêm thấm thía về sự hòa quyện, gắn kết của Đất Nước trong tâm hồn mỗi người. Đất Nước là máu xương của mỗi người, vì nó được gây dựng và được giữ gìn bằng sự sống và tình yêu nước thiêng liêng của biết bao thế hệ đã ngã xuống, đã hi sinh. Và còn bởi, Đất Nước cho ta hình hài máu thịt, cho chúng ta cách sống và cách nghĩ, cho chúng ta điểm tựa truyền thống văn hóa, lịch sử – những yếu tố đó đã hun đúc nên vẻ đẹp và nét tâm hồn riêng của con người Việt Nam, trong đó có cả anh và em, có mỗi chúng ta. Nếu bất cứ một cá nhân nào tồn tại đều là sự đơn độc mà không có một cộng đồng để bám víu, để làm điểm tựa cho sự trưởng thành và dưỡng nuôi về văn hóa tinh thần, thì chẳng khác nào ta trở thành kẻ bơ vơ lạc lõng ư? Đó chính là ý nghĩa thẳm sâu nhất mà Đất Nước có sức ảnh hưởng đến mỗi chúng ta. Vì thế mỗi chúng ta đều phải có trách nhiệm hóa thân cho dáng hình xứ sở, đều phải gắn bó hinh sinh, vì đó cũng là sự tạo tác tinh thần của mỗi chúng ta. Đoạn thơ thứ hai đã thể hiện sự chiêm nghiệm sâu sắc của Nguyễn Khoa Điềm về hình ảnh Đất Nước. Do đó, nó không chỉ tạo nên sự đồng cảm trong tâm hồn người đọc mà còn tăng sức nặng bởi những triết lý, tư tưởng. Nhưng cái tài tình của Nguyễn Khoa Điềm là diễn đạt nó bằng cảm xúc nồng nàn, suy tư sâu lắng. Các bài viết liên quan Soạn bài Đất Nước – Nguyễn Khoa Điềm hay nhất Soạn bài Đất Nước – Nguyễn Khoa Điềm ngắn nhất
phân tích bài đất nước đoạn 2