phong cách văn học
Phong cách của một nhà văn. Phong cách văn học nghệ thuật. 3. Dạng của ngôn ngữ sử dụng trong những yêu cầu chức năng điển hình nào đó, khác với những dạng khác về từ vựng, ngữ pháp, ngữ âm. Phong cách ngôn ngữ khoa học, Phong cách chính luận.
Những câu nói giao tiếp trong văn phòng (In The Office) - What time does the meeting start? (Mấy giờ thì cuộc họp bắt đầu?) - What time does the meeting finish? (Mấy giờ thì cuộc họp kết thúc?) - He's in a meeting. (Anh ấy đang họp.) - The recetion's on the first floor. (Quầy lễ tân ở tầng một.) - I'll be free after lunch. (Tôi rãnh sau bữa trưa.)
Vẽ Sơ Đồ Tư Duy Văn Bản Phong Cách Hồ Chí Minh - Mẫu 2 Bác lựa chọn những gì tinh túy nhất, hay nhất để học cho mình. Tinh hoa văn hóa nhân loại - "những ảnh hưởng quốc tế đó đã nhào nặn với cái gốc văn hóa dân tộc không gì lay chuyển được ở Người, để
Hình ảnh 11: Văn phòng làm việc phong cách nghệ thuật Hình ảnh 12: Văn phòng làm việc sử dụng các dãy bàn dài module; Hình ảnh 13: Văn phòng làm việc chia thành các khu tập trung Hình ảnh 14: Văn phòng làm việc tổ chức khoa học Hình ảnh 15: Văn phòng làm việc phong cách cổ điển
PHONG THUY HOC - Phong thủy chuyên sâu, học thuật phong thủy, xem phong thủy, vật phẩm phong thủy, đá quý phong thủy, trang sức phong thủy Cách áp dụng phong thủy bán bất động sản dễ dàng hơn. Phong Thủy Văn Phòng. Xem phong thủy phòng làm việc chuẩn cho người tuổi Mậu Tuất;
Mua ngay Laptop Học tập - Văn phòng Dưới 15 triệu chính hãng, giao hàng tận nhà nhanh chóng Xem giá, tồn kho tại: Hồ Chí Minh Lịch sử đơn hàng
Atm Online Lừa Đảo. Phong cách học là một nhánh của ngôn ngữ học ứng dụng liên quan đến việc nghiên cứu phong cách trong văn bản, đặc biệt, nhưng không riêng, trong các tác phẩm văn học. Còn được gọi là ngôn ngữ học văn học, văn phong tập trung vào các số liệu, hình vẽ và các phương tiện tu từ khác được sử dụng để cung cấp sự đa dạng và khác biệt cho bài viết của ai đó. Đó là phân tích ngôn ngữ cộng với phê bình văn học. Theo Katie Wales trong " A Dictionary of Stylistics ," mục tiêu của "hầu hết các phong cách văn bản không chỉ đơn giản là để mô tả các đặc điểm chính thức của văn bản vì lợi ích của chúng, mà để thể hiện ý nghĩa chức năng của chúng đối với việc giải thích văn bản; hoặc để liên hệ các hiệu ứng văn học với 'nguyên nhân' ngôn ngữ nơi chúng được cảm nhận có liên quan. " Nghiên cứu kỹ văn bản sẽ giúp khám phá các lớp ý nghĩa sâu sắc hơn chỉ là cốt truyện cơ bản, diễn ra ở cấp độ bề mặt. Các yếu tố của phong cách trong văn học Các yếu tố của phong cách được nghiên cứu trong các tác phẩm văn học là những gì được thảo luận trong bất kỳ văn học hoặc lớp học viết nào, chẳng hạn như Yếu tố ảnh lớn Sự phát triển của nhân vật Cách một nhân vật thay đổi trong suốt câu chuyện Đối thoại Lời thoại hoặc suy nghĩ nội tâm Dự báo Các gợi ý đã giảm về những gì sẽ xảy ra sau đó Hình thức Cho dù một cái gì đó là thơ, văn xuôi, kịch, truyện ngắn, sonnet, Hình ảnh Bộ cảnh hoặc các mục được hiển thị với các từ mô tả Trớ trêu Một sự kiện xảy ra trái ngược với những gì mong đợi Juxtaposition Đặt hai yếu tố lại với nhau để so sánh hoặc đối chiếu chúng Tâm trạng Không khí làm việc, thái độ của người kể chuyện Nhịp độ Bài tường thuật diễn ra nhanh như thế nào Point of view Góc nhìn của người kể chuyện; ngôi thứ nhất tôi hoặc ngôi thứ ba anh ấy hoặc cô ấy Cấu trúc Cách kể một câu chuyện phần mở đầu, hành động, cao trào, đoạn kết hoặc cách tổ chức một phần phần mở đầu, phần chính, phần kết so với phong cách báo chí hình tháp ngược Chủ nghĩa tượng trưng Sử dụng một yếu tố của câu chuyện để đại diện cho một thứ khác Chủ đề Một thông điệp được truyền tải hoặc thể hiện trong một tác phẩm; chủ đề trọng tâm hoặc ý tưởng lớn của nó Giọng điệu Thái độ của người viết đối với chủ đề hoặc cách thức lựa chọn từ vựng và trình bày thông tin, chẳng hạn như thân mật hoặc trang trọng Yếu tố từng dòng Alliteration Sự lặp lại gần nhau của các phụ âm, được sử dụng để tạo hiệu ứng Assonance Sự lặp lại gần đúng của các nguyên âm, được sử dụng để tạo hiệu ứng Thông tục Các từ không chính thức, chẳng hạn như tiếng lóng và thuật ngữ khu vực Từ điển Tính đúng đắn của ngữ pháp tổng thể ảnh lớn hoặc cách nói của các nhân vật, chẳng hạn như trọng âm hoặc ngữ pháp kém Biệt ngữ Thuật ngữ dành riêng cho một trường nhất định Ẩn dụ Một phương tiện để so sánh hai yếu tố Cũng có thể là một bức tranh lớn nếu toàn bộ một câu chuyện hoặc một cảnh được bố trí để thể hiện sự song song với một thứ khác Lặp lại Sử dụng các từ hoặc cụm từ giống nhau trong một khoảng thời gian ngắn để nhấn mạnh Vần Khi các âm giống nhau xuất hiện trong hai từ trở lên Nhịp điệu có tính nhạc cho bài viết, chẳng hạn như bằng cách sử dụng các âm tiết có trọng âm và không nhấn trong một dòng thơ hoặc nhiều câu hoặc sự lặp lại trong một đoạn văn Sự đa dạng của câu Sự thay đổi về cấu trúc và độ dài của các câu liên tiếp Cú pháp Sự sắp xếp các từ trong một câu Các yếu tố của phong cách là đặc điểm của ngôn ngữ được sử dụng trong tác phẩm viết, và phong cách là nghiên cứu của họ. Cách một tác giả sử dụng chúng là điều làm cho tác phẩm của một nhà văn khác biệt với tác phẩm khác, từ Henry James đến Mark Twain đến Virginia Woolf. Cách sử dụng các yếu tố của một tác giả tạo nên giọng văn riêng biệt của họ. Tại sao việc học Văn lại hữu ích Giống như một vận động viên ném bóng chày nghiên cứu cách cầm và ném một loại sân theo một cách nhất định, để làm cho bóng đi đến một vị trí nhất định và tạo ra một kế hoạch trò chơi dựa trên một đội hình gồm các cầu thủ cụ thể, việc nghiên cứu văn bản và văn học sẽ giúp mọi người để học cách cải thiện khả năng viết và do đó là kỹ năng giao tiếp cũng như học cách đồng cảm và tình trạng con người. Bằng cách bị cuốn vào suy nghĩ và hành động của nhân vật trong một cuốn sách, câu chuyện hoặc bài thơ, mọi người trải nghiệm quan điểm của người kể chuyện đó và có thể rút ra kiến thức và những cảm xúc đó khi tương tác với những người khác trong cuộc sống thực, những người có thể có những hành động hoặc quá trình suy nghĩ tương tự . Nhà phong cách Theo nhiều cách, phong cách học là một nghiên cứu liên ngành về cách diễn giải văn bản, sử dụng cả khả năng hiểu ngôn ngữ và hiểu biết về các động lực xã hội. Phân tích văn bản của một nhà phong cách học bị ảnh hưởng bởi lý luận tu từ và lịch sử. Michael Burke mô tả lĩnh vực này trong " The Routledge Handbook of Stylistics " là một bài phê bình diễn ngôn theo kinh nghiệm hoặc pháp y, trong đó nhà tạo mẫu là "một người với kiến thức chi tiết của mình về hoạt động của hình thái học, âm vị học, từ vựng, cú pháp, ngữ nghĩa, và các mô hình diễn ngôn và thực dụng khác nhau, đi tìm kiếm bằng chứng dựa trên ngôn ngữ để hỗ trợ hoặc thực sự thách thức các diễn giải chủ quan và đánh giá của các nhà phê bình và nhà bình luận văn hóa khác nhau. " Burke vẽ các nhà văn phong cách, sau đó, như một kiểu nhân vật Sherlock Holmes, người có chuyên môn về ngữ pháp và hùng biện, đồng thời yêu thích văn học và các văn bản sáng tạo khác, chọn ra các chi tiết về cách họ vận hành từng mảnh — quan sát phong cách khi nó cung cấp ý nghĩa, như nó thông báo sự hiểu biết. Có nhiều ngành phụ chồng chéo khác nhau về phong cách và một người nghiên cứu bất kỳ lĩnh vực nào trong số này được gọi là chuyên gia phong cách Phong cách văn học Nghiên cứu các hình thức, chẳng hạn như thơ, kịch và văn xuôi Phong cách diễn giải Cách các yếu tố ngôn ngữ hoạt động để tạo ra tác phẩm nghệ thuật có ý nghĩa Phong cách đánh giá Phong cách của một tác giả hoạt động như thế nào — hoặc không — trong tác phẩm Phong cách tập thể Nghiên cứu tần suất xuất hiện của các yếu tố khác nhau trong một văn bản, chẳng hạn như để xác định tính xác thực của một bản thảo Phong cách diễn đạt Cách ngôn ngữ được sử dụng tạo ra ý nghĩa, chẳng hạn như nghiên cứu sự song song, đồng âm, chuyển âm và vần Phong cách nữ quyền Những điểm tương đồng giữa chữ viết của phụ nữ, cách viết chữ và cách đọc chữ viết của phụ nữ khác với chữ viết của nam giới Phong cách tính toán Sử dụng máy tính để phân tích văn bản và xác định phong cách của nhà văn Phong cách nhận thức Nghiên cứu về những gì xảy ra trong tâm trí khi nó gặp ngôn ngữ Hiểu biết hiện đại về hùng biện Từ thời Hy Lạp cổ đại và các triết gia như Aristotle, nghiên cứu về thuật hùng biện là một phần quan trọng trong giao tiếp và tiến hóa của con người. Do đó, không có gì ngạc nhiên khi tác giả Peter Barry sử dụng thuật hùng biện để định nghĩa phong cách là "phiên bản hiện đại của kỷ luật cổ xưa được gọi là hùng biện," trong cuốn sách " Lý thuyết sơ khai " của ông. Barry tiếp tục nói rằng thuật hùng biện dạy "sinh viên của nó cách cấu trúc một lập luận, cách sử dụng hiệu quả các số liệu của bài phát biểu, và nói chung là cách tạo mẫu và thay đổi một bài phát biểu hoặc một đoạn văn để tạo ra tác động tối đa." Ông nói rằng sự phân tích của các nhà tạo mẫu về những phẩm chất tương tự này - hay đúng hơn là cách chúng được sử dụng - do đó, sẽ dẫn đến việc phong cách học là một cách giải thích hiện đại của nghiên cứu cổ đại. Tuy nhiên, ông cũng lưu ý rằng cách đọc khác với cách đọc gần đơn giản ở những điểm sau "1. Đọc gần nhấn mạnh sự khác biệt giữa ngôn ngữ văn học và ngôn ngữ của cộng đồng lời nói chung. ... Ngược lại, văn phong nhấn mạnh mối liên hệ giữa ngôn ngữ văn học và ngôn ngữ hàng ngày. "2. Phong cách học sử dụng các thuật ngữ và khái niệm kỹ thuật chuyên ngành có nguồn gốc từ khoa học ngôn ngữ học, các thuật ngữ như 'sự chuyển đổi', 'sự phân biệt từ vựng', 'sự sắp xếp' và 'sự gắn kết'. "3. Phong cách học khẳng định tính khách quan khoa học hơn là đọc kỹ, nhấn mạnh rằng tất cả mọi người đều có thể học và áp dụng các phương pháp và quy trình của nó. Chủ nghĩa phong cách đang tranh cãi về tính phổ biến của việc sử dụng ngôn ngữ trong khi việc đọc đóng lại bản lề dựa trên quan sát về việc phong cách và cách sử dụng cụ thể này có thể khác nhau như thế nào và do đó tạo ra một lỗi liên quan đến quy chuẩn. Sau đó, phong cách học là việc theo đuổi việc tìm hiểu các yếu tố chính của phong cách ảnh hưởng đến cách giải thích văn bản của một đối tượng nhất định. Nguồn Wales, Katie. "A Dictionary of Stylistics." Routledge, 1990, New York. Burke, Michael, biên tập viên. "The Routledge Handbook of Stylistics." Routledge, 2014, New York. Barry, Peter. "Lý thuyết Khởi đầu Giới thiệu về Lý thuyết Văn học và Văn hóa." Nhà xuất bản Đại học Manchester, Manchester, New York, 1995.
Phong cách nghệ thuật chính là diện mạo thẩm mĩ độc đáo,một phạm trù thẩm mĩ riêng biệt của nhà văn trong cách sáng tác, được tạo thành bởi sự thống nhất của các phương tiện biểu hiện, phù hợp với cái nhìn riêng biệt của nhà văn về đời sống. Phong cách nghệ thuật được hình thành nhờ sự lặp đi lặp lại môtj số yếu tố thuộc phạm trù nội dung và hình thức một cách có thẩm mĩ, xuyên suốt sự nghiệp sáng tác của tác giả. Đặc trưng nhất quán đầu tiên của phong cách nghệ thuật là tính thống nhất, ổn định, bền đang xem Phong cách văn họcLàm thế nào để biết được một bài viết hay một tác phẩm là của tác giả nào? Làm thế nào để phân biệt giọng văn của nhiều người viết khác nhau? Câu trả lời chính là phong cách nghệ thuật. Vậy phong cách nghệ thuật là gì?Top lời giải sẽ phân tích khái niệm mới mẻ này cho bạn.* Khái niệmNghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo, vì vậy nó đòi hỏi người sáng tác phải có phong cách nổi bật, tức là có nét gì đó rất riêng, mới lạ thể hiện trong tác phẩm của mìnhVăn học 12, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1994, trang 136.Nhận định trên đã nêu ra yêu cầu rất đặc trưng của văn chương nghệ thuật, đó là sự độc đáo. Chính sự độc đáo ấy tạo nên phong cách nghệ thuật. Một khi tác giả sáng tác văn học tạo được dấu ấn riêng biệt, độc đáo trong quá trình nhận thức và phản ánh cuộc sống, biểu hiện rõ cái độc đáo qua các phương diện nội dung và hình thức của từng tác phẩm, nhà văn đó được gọi là nhà văn có phong cách nghệ thuật.* Biểu hiện Cách nhìn nhận, khám phá cuộc sống độc đáoVí dụ như cùng là nhà văn hiện thực nhưng Ngô Tất Tố quan tâm đến số phận người phụ nữ trong xã hội, Nguyễn Công Hoan vạch trần bản chất những trò lố nực cười, còn Nam Cao lại miêu tả nỗi bi kịch của người trí thức. Cùng một chủ đề nhưng cách tiếp cạn và khai thác của mỗi nhà văn lại không giống nhau. Nội dung, chủ đề độc đáoChọn lựa đề tài, triển khai cốt truyện, xác định chủ đề, mỗi nhà văn đều sáng tạo ra cái đất diễn riêng của mình. Nếu Thạch Lam viết về cuộc sống mòn mỏi một ngày như mọi ngày của những đứa trẻ phố huyện, thì Ngô Tất Tố lại hướng ngòi bút vào miêu tả vùng trời tối đen như mực của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám. Chính những mảng nội dung độc đáo này sẽ góp phần định hình nên phong cách nghệ thuật của mỗi nhà văn. Giọng điệu độc đáoNhắc đến Nam Cao là nhắc đến giọng điệu triết lý, nhắc đến Vũ Trọng Phụng là nhắc đến giọng điệu trào phúng, nhắc đến Nguyễn Tuân là nhắc đến giọng điệu ngông và tài tử rất đặc trưng. Giọng văn là thứ dễ ngấm và dễ thấm nhất đối với độc giả, giúp nhà văn ghi dấu ấn trong lòng người đọc. Nghệ thuật độc đáoNghệ thuật sử dụng ngôn từ, xây dựng kết cấu, nghệ thuật xây dựng và phân tích tâm lý nhân vật thể hiện sự tài hoa của tác giả. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Tuân được ca ngợi như bậc thầy của ngôn từ, Hoài Thanh được nhắc đến như là nhà phê bình văn học chính xác và sâu sắc cách nghệ thuật ở một nhà văn được định hình từ nhiều yếu tố, trong đó có cả những yếu tố khách quan của thời đại và tầm nhìn dân tộc. Hiểu được phong cách nghệ thuật của từng nhà văn sẽ giúp bạn có cách tiếp cận tốt hơn với những tác phẩm của họ.* Đặc điểm của phong cách nghệ thuật1. Phong cách chính là con người nhà vănNhà văn Pháp Buy phông nói Phong cách ấy là con người. Nó hình thành từ thế giới quan, nhân sinh quan, chiều sâu và sự phong phú của tâm hồn, của vốn sống, sở thích, cá tính cũng như biệt tài trong sử dụng cách hình thức, phương tiện nghệ thuật của nhà duNguyễn Tuân là người nhìn đời bằng nhãn quan của cái tôi kiêu bạc, đầy tự hào, tự tin, tự trọng, cùng với lòng ngưỡng mộ cái Đẹp trong đời. Nguyễn Tuân là người từng trải, đi nhiều, biết rộng, sống phóng khoáng, thích tự do, thích thú với những cảm giác mãnh liệt trong cuộc sống Những yếu tố ấy trong con người nhà văn bộc lộ ra thành một phong cách nghệ thuật Độc đáo, tài hoa và uyên bác. Nét phong cách này khá nhất quán trong cả hai giai đoạn sáng tác trước và sau cách mạng tháng với Nguyễn Tuân, nhà văn Nam Cao thường viết về những cái nhỏ nhặt, xoàng xĩnh. Từ cái sự tầm thường quen thuộc trong đời sống hàng ngày của Những truyện không muốn viết, tác phẩm của Nam Cao làm nổi bật vấn đề xã hội có ý nghĩa to lớn triết lý sâu sắc về con người, cuộc sống và nghệ thuật. Tác phẩm của Nam Cao đề cao con người tư tưởng, đặc biệt chú ý tới hoạt động bên trong của con người, coi đó là nguyên nhân của những hoạt động bên ngoài Đây là phong cách rất độc đáo của Nam Cao. Nhà văn luôn quan tâm tới đời sống tinh thần của con người, luôn hứng thú khám phá con người trong con người. Giọng điệu riêng, buồn thương, chua chát. Ông có phong cách nghệ thuật triết lý trữ tình sắc Phong cách sáng tác thể hiện cách nhìn của nhà văn trước cuộc đờiPhong cách nghệ thuật không đơn thuần chỉ là những nét lặp đi lặp lại thành quen thuộc của nhà văn. Đó phải là sự lặp lại một cách hệ thống, thống nhất cách cảm nhận độc đáo về thế giới và hệ thống bút pháp nghệ thuật phù hợp với cách cảm nhận nên, không phải bất kỳ nhà văn nào cũng có phong cách, tạo được phong cách. Phong cách thường được tạo nên bởi một cây bút sâu sắc trên nhiều phương diện thế giới quan, nhân sinh quan, vốn sống, kinh nghiệm tài năng về nghệ thuật và có bản nét riêng ở cách cảm nhận độc đáo về thế giới và hệ thống bút pháp nghệ thuật phù hợp với cách cảm nhận ấy thể hiện nổi bật, có giả trị và khá nhắt quán trong hầu hết các tác phẩm của họ, lặp đi lặp lại làm cho người đọc nhận ra sự khác biệt với tác phẩm của các nhà văn hạn, giữa Nguyễn Công Hoan và Nam Cao, Xuân Diệu và Chế Lan Viên, Nguyễn Tuân và Nguyễn Minh Châu3. Nghệ thuật là lĩnh vực của cải độc đáo. Phong cách là nét riêng không trùng thêm Tải Ý Nghĩa Nhan Đề Trong Lòng Mẹ “, Ý Nghĩa Nhan Đề Văn Bản Trong Lòng MẹSự thật có thể là một, nhưng cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ của nhà văn phải có màu sắc khác nhau và độc đáo. L. Tônxtôi nói Khi ta đọc hoặc quan sát một tác phẩm văn học nghệ thuật của một tác giả mới, thì câu hỏi chủ yếu nảy ra trong lòng chúng ta bao giờ cũng là như sau Nào, anh ta là con người thế nào đây nhỉ? Anh ta có gì khác với tất cả những người mà tôi đã biết, và anh ta có thể nói cho tôi thêm một điều gì mới mẻ về việc vần phải nhìn cuộc sống của chúng ta như thế nào? toàn tập.Ví dụ Cùng thể hiện khả năng trào phúng, hai nhà văn cùng thời Nguyễn Công Hoan và Vũ Trọng Phụng vẫn tạo được những phong cách khác nhau+ Nguyễn Công Hoan cười nhẹ nhàng, thâm thúy bằng cách dựng lên những tình huống trớ trêu, nghịch lý kiểu Kép Tư Bền, Người ngựa, ngựa người.+ Vũ Trọng Phụng cười chua chát, sâu cay, quyết liệt, như muốn ném thẳng lời nguyền rủa vào mặt người ta kiểu số Đỏ.+ Nam Cao lại có giọng điệu buồn thương, chua chát, đôi khi lại lạnh lùng tưởng như vô Phong cách nghệ thuật là sự ổn định, nhất quánVí dụ Nguyễn Tuân, trải qua hai thời kỳ sáng tác, có những chuyển biến về tư tưởng sáng tác khá rõ nét, nhưng vẫn giữ một phong cách độc đáo, tài hoa, uyên bác. Có khác+ Trước cách mạng, ông ưa viết theo cách ngông, nổi loạn chống lại cái tầm thường, phàm tục ở đời. Cái Đẹp nhiều khi phóng túng.+ Còn sau cách mạng ông ưa viết theo cách tự tin, tự hào, tự trọng về tài năng và bản lĩnh của mình. Cái Đẹp vẫn được đặt trong tư thế thử thách gai góc nhưng bình dị, chân thực Phong cách nghệ thuật biếu hiện rất phong phủ, đa dạng, Điều này tùy thuộc vào tài năng, sở trường của mỗi nhà cách sáng tác có thể biểu hiện ở việc chọn đề tài. Có nhà văn chỉ thích đề tài nông thôn; có người lại ưa và chỉ chọn đề tài thành thị; có người thích những hiện thực mang tính chất nhẹ nhàng, giản dị, thâm trầm; cũng có người lại thích khai thác những chuyện dữ dội, đau đớn, ám ảnh mãnh liệt đối với con người.Phong cách sáng tác có thể biểu hiện ở việc chọn thể loại. mỗi nhà văn chỉ viết thành công nhất ở một thể loại, thể loại ấy chính là phong cách của cách sáng tác có thể biểu hiện ở sự vận dụng ngôn ngữ. Có nhà văn ưa dừng thứ văn nhẹ nhàng, êm đềm, sâu lắng, nhưng có người lại luôn tỉnh táo, sắc lạnh đến tàn nhẫn; có người ưa lối nói dí dỏm mà thâm thúy, người lại thích lối nói sắc sảo, dữ dội, sâu cayPhong cách sáng tác có thể biểu hiện ở giọng điệu. Có nhà văn thường tạo nên một giọng điệu tâm tình, ngọt ngào, ân nghĩa; trong khi người khác lại thành công với giọng điệu thấm đẫm chất triết luậnPhong cách sáng tác có thể biểu hiện ở cách xây dựng hình tượng nhân vật trung tâm. Kiểu nhân vật chân dung Nguyễn Tuân; kiểu nhân vật tâm lý Nam Cao; kiểu nhân vật cảm giác Thạch Lam, kiểu nhân vật đấu tranh Nguyễn Minh Châu trong sáng tác sau năm 1975, kiểu nhân vật CON NGƯỜI Nguyễn Huy Thiệp6. Phong cách nghệ thuật là nét riêng, đậm tính cá thể, nhưng phải có liên hệ mật thiết với hệ thắng chung các phong cách của một thời đại văn dụPhong cách của các nhà thơ Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên trước cách mạng tháng Tám đều nằm trong phong cách lãng mạn của trào lưu Thơ mới lãng mạn Việt Nam 1932 Phong cách sáng tác chịu ảnh hưởng của những phương diện tinh thần khác nhau như tâm lý, khí chất, cá tính của người sáng tác. Đồng thời, nó cũng mang dấu ấn của dân tộc và thời một thời đại lịch sử và thời đại văn học tương ứng có thể tạo ra những phong cách sáng tác mang đặc trưng riêng+ Chẳng hạn phong cách Hồ Xuân Hương trong thời Trung đại còn nặng nề ý thức hệ phong kiến, văn học chịu ảnh hưởng sâu sắc của quan điểm phi ngã;+ Phong cách Nguyễn Tuân trong thời Pháp thuộc, phát triển một khuynh hướng văn học văn học lãng mạn, bộc lộ đầy đủ, sâu sắc cái tôi nghệ sĩ tài hoa, phóng khoáng
YOMEDIA Hướng dẫn soạn bài và luyện tập bài Quá trình văn học và phong cách văn học giúp các em học sinh nắm được kiến thức trọng tâm của bài học và luyện tập câu 1 và câu 2 trong SGK Ngữ Văn 12. Ngoài ra để làm phong phú thêm kiến thức cho bản thân, các em có thể tham khảo thêm bài soạn Quá trình văn học và phong cách văn học tóm tắt. 2. Tóm tắt nội dung bài học Quá trình văn học là diễn tiến hình thành, tồn tại, thay đổi, phát triển của văn học qua các thời kì lịch sử. Trào lưu văn học là một hiện tượng có tính chất lịch sử, ra đời và mất đi trong một khoảng thời gian nhất định. Đó là một phong trào sáng tác tập hợp những tác giả tác phẩm gần gũi nhau về cảm hứng, tư tưởng tạo thành một dòng rộng lớn có bề thế trong đời sống VH của một dân tộc. Là những nét riêng biệt độc đáo của một tác giả trong quá trình nhận thức và phản ánh cuộc sống được thể hiện trong các yếu tố nội dung và hình thức của tác phẩm. 3. Soạn bài Quá trình văn học và phong cách văn học chương trình chuẩn Câu 1 Quá trình văn học là gì? Nêu các quy luật chung của quá trình văn học. Quá trình văn học là sự tồn tại, vận động và tiến hóa của văn học vừa phụ thuộc vào quá trình lịch sử xã hội vừa tuân theo những quy luật riêng. Các quy luật cơ bản của quá trình văn học Quy luật tiếp nhận và tác động của đời sống và lịch sử là một bộ phận của lịch sử xã hội, quá trình văn học văn học tất yếu phải chịu sự chi phối của những yếu tố, điều kiện đã làm nên hau thúc đẩy quá trình đó. Mọi hiện tượng của quá trình văn học đều có tiền đề trực tiếp hay gián tiếp trong đời sống văn hóa, xã hội, lịch sử. Quy luật kế thừa và cách tân quá trình văn học chủ yếu là quá trình của sự sáng tạo ra những giá trị nghệ thuật thẫm mĩ mới. Những thành tựu văn học ra đời trước luôn tạo ra những điểm xuất phát thuận lợi cho những tìm tòi hướng tới các thành tựu mới và quá trình này luôn vô tận. Giữa kế thừa và cách tân có mối quan hệ hết sức chặt chẽ. Quy luật giao lưu văn học một dân tộc không thể phát triển nếu thiếu giao lưu. Giao lưu càng rộng thì văn học càng có điều kiện phát triển. Nhưng văn học một dân tộc thực sự chỉ phát triển khi giữa các yếu tố nội sinh và ngoại lai có sự tương tác tích cực, khiến các yếu tố ngoại lai không làm triệt tiêu bản sắc vốn có của nền văn học dân tộc mà ngược lại làm cho bản sắc ấy thêm phong phú và giàu có. Câu 2 Xác định đặc trưng cơ bản của văn học Phục hưng, chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa hiện thực phê phán, chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Nói vắn tắt về các trào lưu văn học hiện đại trên thế giới và các trào lưu văn học ở Việt Nam. Đặc trưng cơ bản của văn học Phục hưng, chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa hiện thực phê phán, chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa Văn học thời Phục hưng ở châu Âu giải phóng con người, đề cao cá tính, chống lại sự khắc nghiệt của thời kỳ trung cổ. Chủ nghĩa cổ điển Pháp thế kỷ XVII chủ trương mô phỏng văn học cổ đại, sáng tác theo các quy tắc lí tính chặt chẽ. Chủ nghĩa lãng mạn thế kỷ XVIII-XIX chủ trương phá bỏ các giáo điều, đề cao sức tưởng tượng, xây dựng các hình tượng nghệ thuật theo mong muốn chủ quan của nhà văn. Chủ nghĩa hiện thực phê phán thế kỷ XIX thiên về nguyên tắc khách quan, thường lấy đề tài từ cuộc sống hiện thực, xây dựng những tính cách điển hình vừa khái quát vừa cụ thể, tình cách phát triển hợp logic cuộc sống. Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa miêu tả cuộc sống trong quá trình phát triển CM, đề cao vai trò lịch sử của nhân dân. Vắn tắt về các trào lưu văn học hiện đại trên thế giới và các trào lưu văn học ở Việt Nam. Các trào lưu văn học hiện đại trên thế giới Chủ nghĩa siêu thực Pháp – 1924 quan niệm thế giới trên hiện thực mới là mảnh đất sáng tạo của nghệ sĩ. Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo Mỹ La-tinh, sau Thế chiến thứ hai quan niệm thực tại còn bao gồm cả đời sống tâm linh, niềm tin tôn giáo, các huyền thoại, truyền thuyết. Chủ nghĩa hiện sinh châu Âu, sau Thế chiến thứ hai miêu tả cuộc sống của con người như một sự tồn tại huyền bí, xa lạ và phi lí. Các trào lưu văn học ở Việt Nam Trào lưu lãng mạn 1930-1945 Tự lực văn đoàn và phong trào Thơ mới. Trào lưu hiện thực phê phán 1930-1945 Ngô Tất Tố, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan,… Trào lưu hiện thực xã hội chủ nghĩa 1945-1975 Hồ Chí Minh, Huy Cận, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Nguyễn Minh Châu,… Câu 3 Thế nào là phong cách văn học? Phong cách văn học là sự độc đáo, riêng biệt của nghệ sĩ, biểu hiện trong tác phẩm. Phong cách văn học nảy sinh do chính nhu cầu đòi hỏi của cuộc sống về sự xuất hiện cái mới và nhu cầu sáng tạo văn học. Quá trình văn học được đánh dấu bằng những nhà văn kiệt xuất với phong cách độc đáo của họ. Phong cách in đậm dấu ấn dân tộc và thời đại. Câu 4 Phân tích những biểu hiện của phong cách văn học. Phong cách văn học biểu hiện trước hết ở cái nhìn, cách cảm thụ giàu tính khám phá nghệ thuật đối với cuộc đời. Phong cách của các nền văn học, thời đại văn học, tác gia văn học phân biệt với nhau đầu tiên ở cái nhìn và cách cảm thụ đó. Do vậy, đi vào tìm hiểu một phong cách văn học, người ta không thể bỏ qua việc xác định, nắm bắt yếu tố này. Giọng điệu riêng gắn với cảm hứng sáng tác. Nét riêng trong sự lựa chọn, xử lí đề tài, xác định chủ đề, xác định đối tượng miêu ta, thể hiện chính,… Tính thống nhất, ổn định trong cách sử dụng các phương thức và phương tiện nghệ thuật. ⇒ Các biểu hiện nói trên của phong cách văn học không tồn tại trong thế giới cô lập, tách rời. Chúng thuộc nhiều cấp độ, bao hàm lẫn nhau hay tồn tại thông qua nhau. Tất cả tạo thành một nguyên tắc xuyên suốt trong việc xây dựng hình thức nghệ thuật, đem lại cho hiện tượng văn học một tính chỉnh thể có thể cảm nhận được. Ngoài ra, các em có thể tham khảo thêm bài giảng Qúa trình văn học và phong cách văn học. 4. Soạn bài Quá trình văn học và phong cách văn học chương trình nâng cao Mod Ngữ văn sẽ cập nhật bài soạn này trong thời gian sớm nhất! 5. Hướng dẫn luyện tập Câu 1 Nhận xét vắn tắt về sự khác biệt về đặc trưng của văn học lãng mạn và văn học hiện thực phê phán qua truyện Chữ người tử tù Nguyễn Tuân và đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia trích Số đỏ - Vũ Trọng Phụng. Chữ người tử tù thuộc trào lưu văn học lãng mạn lấy đề tài lịch sử nhưng sáng tạo thêm, xây dựng hình tượng nhân vật có vẻ phi thường. Huấn Cao có tài hoa khác thường, tấm lòng trong sáng khác thường thiên lương trong sáng và lòng can đảm cũng khác thường cuộc hội ngộ giữa nghệ sĩ Huấn Cao với công chúng say mê nghệ thuật cai ngục và thơ lại diễn ra khác thường trong nhà tù trước ngày bị hành quyết. Đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia thuộc trào lưu văn học hiện thực phê phán lấy đề tài tự cuộc sống hiện thực, xây dựng những tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình Xuân tóc đỏ, Tuyết, gia đình Văn Minh…, tính cách phát triển hợp logic cuộc sống. Câu 2 Nêu những nét chính trong phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân và Tố Hữu. Phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân Ngông. Tài hoa, uyên bác. Là nhà văn của những tính cách độc đáo, của những tình cảm, cảm giác mãnh liệt, của những phong cảnh tuyệt mỹ. Tự do, phóng túng và ý thức sâu sắc về cái tôi cá nhân. Phong cách nghệ thuật Tố Hữu Là nhà thơ trữ tình – chính trị. Mang đậm dấu ấn sử thi và cảm hứng lãng mạn. Giọng điệu tâm tình, ngọt ngào. Đậm đà tính dân tộc. ZUNIA9 Soạn văn liên quan ZUNIA9 XEM NHANH CHƯƠNG TRÌNH LỚP 12 YOMEDIA
Gốc La Tinh “stilus” – bút viết, cách viết. Trong văn học 1 là một loại hệ thống nhất quán, có thể nhận biết, nhằm mục đích thẩm mĩ, biểu hiện gián tiếp qua hệ thống các hình thức kết cấu của lời nói trong tác phẩm các đặc điểm về mặt ngôn ngữ như ngữ âm, từ vựng – cú pháp trong tất cả phát ngôn của các chủ thể lời nói, cũng như chức năng phát ngôn của chúng; 2 là nguyên tắc điều tiết chung các đặc điểm phát ngôn nào đấy và hình thức kết cấu của chúng trong tác phẩm, nguyên tắc này được nhận biết trên cái nền của những hiện tượng nghệ thuật giống nhau, có thể tái tạo bằng cách bắt chước, phong cách hóa, nhân bản, hay giễu nhại. Về lí thuyết, có thể có hai định nghĩa bổ sung cho nhau về khái niệm “Phong cách” “Ở trường hợp này, phong cách được hiểu là một cái gì chung nối kết hiện tượng được xem xét với các hiện tượng khác nào đó; trong trường hợp khác, phong cách được hiểu như là sự biểu hiện của một hệ thống nhất quán nào đó, của một hình thức nội tại chung nằm trong nền móng của một phạm vi hiện tượng được khảo sát – nói cách khác, trong nền móng của một văn bản nào đó”… Ngược lại, có thể hiểu phong cách theo nghĩa khác, nó là một cái gì đó đặc biệt, tức là ở đây, những đặc điểm văn pháp có quan hệ với đặc thù của văn bản. Chính trong trường hợp này, người ta nói về phong cách của một nhà văn hay một nghệ sĩ nào đó nói riêng, hay về phong cách cá nhân nói chung trong khi đó, theo hướng tiếp cận thứ nhất, xuất phát từ các đặc điểm hệ thống trừu tượng, phong cách cá nhân này như một tổ hợp cụ thể của các đặc điểm văn pháp” Uspenski – Những vấn đề kí hiệu học phong cách dưới ánh sáng ngôn ngữ học. IV. Tartu, 1969, Cơ sở của quan niệm thứ nhất, quan niệm loại hình về Phong cách văn học có thể là trực giác được tích lũy bằng kinh nghiệm so sánh. Về quan niệm thứ hai, chỉ có thể xác định đúng đắn và chắc chắn cái đặc thù trên nền của “cái chung”, hoặc “cái được thừa nhận chung” nếu không, sẽ không rõ, chúng ta được phép xem cái gì là dấu hiệu của cá nhân. Khái niệm “Phong cách”, một mặt, có quan hệ với cấu trúc tác phẩm. Định nghĩa về nó phải trả lời câu hỏi nói về Phong cách, chúng ta chú ý những đặc điểm loại gì và cấp độ hay bình diện nào của cấu trúc ấy. Mặt khác, hệ thống các dấu hiệu của Phong cách là sự biểu hiện của một đường hướng sáng tạo thống nhất, là sự phản ánh “ý chí nghệ thuật” của tác giả-người sáng tạo. Phong cách là toàn bộ chỉnh thể hay sự “tổng thể” của tác phẩm; trong trường hợp này, sự đo lường đặc biệt dành cho chỉnh thể nằm ở sự hiển thị, ở sự biểu hiện ý hướng ấy từ bên ngoài đối với sự quan sát và lĩnh hội trực tiếp của độc giả “phong cách là sự hiện diện rõ rệt trực tiếp và sự biểu hiện chỉnh thể ấy trong từng yếu tố hợp thành của tác phẩm và trong tác phẩm hoàn chỉnh như một chỉnh thể”. Vì thế, Phong cách in đậm dấu ấn năng động của tác giả, nó là kết quả trực quan của hoạt động sáng tạo “phong cách hiện lên như là “cái khác của mình” trong tương quan với khái niệm “tác giả” và có thể xác định như là sự biểu hiện hữu hình, trực tiếp và rõ ràng nhất sự hiện hữu của tác giả trong từng yếu tố, như “dấu vết” hoạt động tạo lập và tổ chức chỉnh thể nghệ thuật của tác giả được phản ánh một cách vật chất và có thể nắm bắt được một cách sáng tạo” Girsman – Tác phẩm văn học Lí thuyết về chỉnh thể nghệ thuật. M., 2007, tr. 76, 83. Khi đối chiếu các đặc điểm của tác phẩm vẫn được xem là những dấu hiệu Phong cách với ý hướng của tác giả – người sáng tạo, tất yếu sẽ xuất hiện ba hướng tiếp cận và theo đó, sẽ nổi lên ba bình diện của vấn đề 1. Hướng tiếp cận tự nhiên nhất của độc giả với những đặc điểm vẫn được xếp vào Phong cách của tác phẩm là ấn tượng chung về một “kiểu” hay một “dạng” tác phẩm đặc biệt và độc đáo với một tác giả, một khuynh hướng, một thời đại, một nền văn hóa dân tộc. Kiểu quan hệ này của độc giả tương tự như việc chúng ta làm quen với một con người nhận thức sự độc đáo của một cá nhân cụ thể và đồng thời cố gắng xác định sự phù hợp hoặc không ăn khớp giữa cá nhân ấy với một loại người nào đấy mà chúng ta đã biết. Khi gặp lại một con người hay một Phong cách nhiều lần, ta sẽ nhận ra cái riêng biệt và sự độc đáo của Khuôn Mặt hãy nhớ lại lời thơ của Baratynski về “không có biểu hiện chung cho một gương mặt” mà dứt khoát ta sẽ so sánh với những gương mặt khác, giống, hay không giống như thế. Vinokur đã viết về tính khả tri như là phẩm chất quan trọng nhất của Phong cách trong một công trình của ông “Thí dụ, tôi đã đọc đoạn văn sau đây “Một năm, hai năm, ba năm, ừ, thì cũng được, nhưng mà lúc nào cũng dạ hội, khiêu vũ, hòa nhạc, ăn tối, những chiếc áo dài vũ hội, những kiểu tóc, những cơ thể khoe khoang nhan sắc, những tay tán gái còn trẻ và không còn trẻ, tất cả đều một giuộc, tất cả tựa như biết được một cái gì đó, tựa như có quyền sử dụng tất cả, cười cợt tất cả, khi mà năm nào cũng có mấy tháng mùa hè ở dã thự với thứ thiên nhiên chỉ mang lại cho đám người giàu có nhàn nhã cảm giác dễ chịu về đời sống như thế, khi mà lúc nào cũng âm nhạc và đọc sách, vẫn là những kẻ lúc nào cũng hoắng lên với các vấn đề đời sống, mà chẳng bao giờ giải quyết các vấn đề ấy, – khi mà tất cả những chuyện đó kéo dài tới 7, 8 năm, nó chẳng những không hứa hẹn một sự thay đổi nào cả, mà còn mất hết vẻ hấp dẫn, nàng bắt đầu thất vọng và tâm trạng thất vọng, ý muốn được chết đã tìm đến với nàng”[1]. Tôi sẽ nói chắc chắn đó là Lev Tolstoi, mặc dù tôi không biết những dòng này được trích từ tác phẩm nào của Tolstoi. Điều quan trọng, tôi nhận ra Lev Tolstoi ở đây không chỉ vì đoạn trích đã nói cái điều mà nhà văn này thường nói, không chỉ nhờ vào giọng điệu mà nhà văn vẫn thường nói về những đối tượng như thế, mà còn nhờ vào bản thân ngôn ngữ, vào những dấu hiệu cú pháp đặc biệt của nó” Vinokur – Nghiên cứu ngữvăn học. M., 1990, tr. 121. Ở đây, chỉ số nói lên Phong cách tác giả không chỉ là cú pháp khác thường, mà còn là quan hệ độc đáo với từ vựng không tuân thủ các chuẩn mực văn học “những tay tán gái”, “một giuộc” và bất chấp luật cấm sự trùng lặp những từ giống hệt nhau “nàng bắt đầu thất vọng và tâm trạng thất vọng”, tức là coi thường tất cả những gì có thể làm cho lời nói trở thành “đèm đẹp”. Trong lịch sử nghiên cứu phong cách, hướng tiếp cận vấn đề từ góc độ “diện mạo ngôn từ” được thể hiện rõ nhất trong định nghĩa tuyệt vời của G-L. Buffon “Le stile, c’est l’homme même”. Theo ý kiến của một chuyên gia hiện nay, cần phải hiểu công thức ấy không phải theo nghĩa “phong cách thế nào, thì con người thế vậy”, mà theo nghĩa “khẳng định phương thức triển khai và tổ chức tư tưởng thuộc về cá nhân người viết”, hơn nữa, phương thức ấy đảm bảo cho tác phẩm của nhà văn, như chính Buffon đã chỉ ra, tính toàn vẹn giống như tính toàn vẹn mà ta tìm thấy trong các tạo tác của tự nhiên” Podgaetskaia – Ranh giới của phong cách cá nhân//Lí thuyết phong cách văn học. Các bình diện nghiên cứu hiện đại. M., 1982, tr. 33. Định nghĩa của Sakulin được xác lập theo hướng ấy “Không thể đồng nhất Phong cách với cả hình thức nói chung, lẫn các thành tố riêng lẻ của nó. Phong cách là tổng thể các đặc điểm khiến hình thức này khác biệt với hình thức khác tương tự như nó. Chẳng hạn, hình thức cấu trúc của một ngôi đền có thể theo nhiều phong cách khác nhau Gothic, Romance, Byzantine, Moorish cách là sự độc đáo, là sự khác biệt của hình thức này với các hình thức khác tương tự như nó” Sakulin – Ngữ văn học và văn hóahọc. М., 1990, tr. 140. Bởi vậy, tính chỉnh thể thuộc về Phong cách, tức là “diện mạo” đặc biệt của hình thức, bao giờ cũng là sự “độc đáo mang tính loại hình”. Thí dụ như những đặc điểm hình thức trong việc lựa chọn và sắp xếp từ vựng của L. Tolstoi mà ta nhận ra dấu ấn cá nhân khi so sánh tác giả ấy với các tác giả khác đều mang tính loại hình nếu đối chiếu nhiều tác phẩm khác nhau của tác giả này. Những dấu hiệu độc đáo được lặp lại, hay diễn đạt theo thuật ngữ của G. Kaiser, “những đặc điểm phong cách học” Stilzüge – “những hiện tượng ngôn ngữ tiêu biểu dùng để tổ chức tác phẩm như một chỉnh thể nhờ vào sự lặp lại của nó – biến Phong cách thành cái có thể nhận biết Mặt khác, thường các đặc điểm phong cách ấy càng dễ xác định, càng truyền cảm và hữu hiệu, thì sự việc càng nói nhiều hơn về những hiện tượng chệch ra ngoài lời nói “thông thường”. Chẳng hạn, trong một bài thơ, nếu khuyết mạo từ nhiều lần ở vị trí mà ta chờ đợi nó phải có, thì đúng là chúng ta đã bắt gặp một đặc điểm của phong cách hứa hẹn nhiều điều có thể giải thích” Kayser W. Das sprachliche Kunstwerk. 3. erweiterte Auflage. Bern, 1954, tr. 100-1-1. Bản dịch tiếng Nga của Bent. 2. Không hẳn là hướng tiếp cận của độc giả, mà chủ yếu là hướng tiếp cận vấn đề mang tính đặc thù của khoa học không chú ý tới khả năng nhận dạng, mà tập trung vào mối quan hệ qua lại và quan hệ phụ thuộc lẫn nhau của các dấu hiệu phong cách học, bao gồm cả những dấu hiện liên quan tới các cấp độ và các bình diện khác nhau của cấu trúc nghệ thuật. Ở đây, cần kể tới cách định nghĩa khái niệm Phong cách trong một bài nghiên cứu viết từ đầu thế kỉ XX của Zirmunski “… khái niệm phong cách không chỉ có nghĩa là sự cộng tồn thực tế, tạm thời, hoặc có tính không gian, của các thủ pháp khác nhau, mà còn có nghĩa là sự chế định nội tại của chúng, là mối liên hiện hữu cơ, hoặc liên hệ nội tại giữa các thủ pháp riêng lẻ. Ấy là chúng tôi chưa nói vào thế kỉ XVIII, ở Pháp từng có một hình thức cổng vòm đặc biệt gắn với kết cấu một cửa chính hoặc mái cuốn đặc biệt; chúng tôi khẳng định cổng vòm như thế đòi hỏi phải có mái cuốn tương ứng. Như một học giả cổ sinh học dựa vào một số xương hóa thạch động vật, có thể biết được chức năng của nó trong cơ thể, phục hồi toàn bộ cấu trúc của hóa thạch ấy, nhà nghiên cứu phong cách nghệ thuật dựa vào cấu trúc của cột trụ hoặc tàn tích của tiền sảnh có thể giải cấu trúc đại quát chỉnh thể hữu cơ của tòa nhà, “tiên đoán” các hình thức giả định của nó. Chúng tôi xem những “tiên đoán” như thế, tất nhiên chỉ ở mức độ rất đại quát, là những khả thể trong lĩnh vực phong cách thi ca, nếu như tri thức của chúng ta về các thủ pháp nghệ thuật trong sự thống nhất của chúng, tức là trong nhiệm vụ nghệ thuật cơ bản của chúng, sẽ phù hợp với tri thức của các vị đại diện cho nghệ thuật tạo hình hoặc các nhà cổ sinh học” Zyrmunski – Nhiệm vụ của thi pháp học// Zyrmunski – Lí luận văn học. Thi pháp học. Phong cách học. L., 1977, Ở đây, sự nhận biết “cấu trúc” của tác phẩm nghệ thuật, của sơ đồ mà nó dựa vào đó để kiến tạo và là nguyên nhân xuất hiện các “dấu hiệu đặc thù” nào đấy đã thay cho việc dùng bản năng nắm bắt sự thống nhất của phong cách khi nhận thức những biểu hiện trực quan của Phong cách. Nhưng nếu như sáng tác nghệ thuật chỉ phỏng lại đơn giản một nguyên tắc cấu trúc truyền thống nào đấy thì không thể nói về Phong cách như là sự thống nhất trong mâu thuẫn giữa cái lặp lại và cái không lặp lại. Vì thế, “cái được tiên đoán” trong diện mạo của tác phẩm cần phải kết hợp với “cái bất ngờ”, còn hệ thống từ đó nảy sinh phong cách phải chưa hoạt động viên mãn, cạn liệt. Likhachev từng nói về sự “thiếu chính xác” có tính nguyên tác của nền kiến trúc châu Âu ở thời đại mà ông nghiên cứu “Trong những tác phẩm đích thực của nghệ thuật Roman, rất dễ phân biệt bên phải và bên trái cổng chính, đặc biệt là các chi tiết điêu khắc; cửa sổ và cột trụ cũng không giống nhau Bản thân các cây cột cũng khác nhau, khác nhau về đá được dùng làm cột, về hình thức có thể cột xoắn xen kẽ với cột nhẵn nhụi…. Nhưng module và tỉ lệ kiến trúc chung vẫn không bị phá vỡ. Việc cảm thụ cấu trúc theo phong cách Roman đòi hỏi người xem phải thường xuyên có sự “điều chỉnh”. Người xem mơ hồ cảm thấy phía sau mọi sự khác biệt là một cây cột “lí tưởng”, anh ta tạo ra trong tâm trí ý niệm về cửa sổ của bức tường ấy trong tòa nhà, hay vị trí ấy của bức tường, anh ta phục dựng trong ý thức sự cân đối và tạo ra giữa sự thiếu chính xác của một tòa nhà trong thực tế một bản chất lí tưởng nào đó, – bản chất đầy hấp dẫn bởi một số điểm mập mờ, thực hiện chưa toàn ven, nói chưa cạn ý” Likhachev – Mấy suy nghĩ về sự “thiếu chính xác” của nghệ thuật// Likhachev – Sự phát triển của văn học Nga từ thế kỉ X đến thế kỉ XVII. L., 1973, tr. 394-400. Tóm lại, trong Phong cách, cái định trước, cái tiên đoán, tính cơ cấu luôn kết hợp với sự sống động và bất ngờ, và chính điều đó mang lại cho nó đặc điểm cá nhân của tác giả. 3. Có thể nhấn mạnh bản chất hai mặt của Phong cách, quan hệ mâu thuẫn giữa nguyên tắc sáng tạo mang tính sinh sản và sự thực hiện cụ thể của nguyên tắc ấy. Những đặc điểm hay dấu hiệu Phong cách, theo ý kiến chung, nằm ngay trên “bề mặt của tác phẩm”, có nghĩa, chúng là kết quả gia công chất liệu ở đây là lời nói và sự phân bố các yếu tố của nó trong không gian văn bản. Nhưng với tư cách là hệ thống tạo nên “diện mạo của hình thức”, Phong cách thể hiện một nguyên tắc có ý nghĩa sinh sản nào đó nằm ngay dưới chiều sâu của sự sáng tạo nghệ thuật. Từ điển phổ thông năm 1771 của Pháp gọi Phong cách là “một kiểu linh hồn của phát ngôn”. Theo công thức của một nhà lí luận hiện đại, “cấu tạo” “facture” của Phong cách là “cái bề mặt tác phẩm chỉ ra cái đích thị là nó, nguyên tắc sáng tạo ấy nằm ở chiều sâu của tác phẩm và có ở đó ngay từ đầu” Mikhailov – Những vấn đề của phong cách và các giai đoạn phát triển của văn học thời hiện đại// Lí luận phong cách văn học. Những bình diện nghiên cứu hiện đại. M., 1982, tr. 344. Bởi vậy, đã đủ bề dày truyền thống để sự phân biệt bề mặt “chất liệu” và chiều sâu ngoài chất liệu cho phép tồn tại hai cách giải thích cơ bản. Cách thứ nhất nhấn mạng sự di chuyển qua lại và sự bất khả phân tách trong thực tế hai bình diện đối lập nhau giữa chất liệu được tác giả gia công và tổ chức với thế giới quan của tác giả được thể hiện trong việc tổ chức chất liệu ấy. Nhưng với cách hiểu về Phong cách bỏ qua những khác biệt của các bình diện tác phẩm vì “sự thống nhất hình thức – nội dung” của, như đôi khi vẫn xuất hiện, sẽ không thể khám phá sự thống nhất ấy theo đặc trưng của nó như là kết quả khắc phục mâu thuẫn nội tại cụ thể. Vì thế, các mâu thuẫn xây dựng – sáng tạo sẽ được tìm kiếm bên ngoài tác phẩm trong quan hệ qua lại giữa giữa cá nhân người sáng tác và đối tượng mâu thuẫn với người sáng tạo ấy. Hướng tiếp cận trái ngược với hướng tiếp cận nói trên xuất phát từ quan niệm cho rằng nguyên tắc sáng tác chi phối Phong cách có một “tồn tại khác” về phía thực tại của độc-thính giả, hay khán giả mà nó hiện hữu ở đó. Phương án thứ nhất trong ciệc giải quyết vấn đề Phong cách được vạch ra trong mĩ học giai đoạn cuối thế kỉ XVIII – đầu thế kỉ XX. Trong bài viết Mô phỏng đơn giản tự nhiên, bút pháp[2], phong cách 1788 của Goethe, ba thuật ngữ được nêu ra nhằm chỉ ba tình huống sáng tạo khác nhau 1 nghệ sĩ sao chép các hình thức trực quan bên ngoài của các đối tượng được cảm nhận trực tiếp khớp với đối tượng “tĩnh tại”tức là một yếu tố biệt lập, hoặc một bộ phận của tự nhiên; 2 chiếm lĩnh một chỉnh thể mà thực chất là thay thế “cuốn sách vỡ lòng vĩ đại của tự nhiên” bằng ngôn ngữ riêng của nghệ sĩ và trao cho đối tượng một hình thức đặc thù của cá nhân người cảm thụ phù hợp với một đối tượng – chỉnh thể của tự nhiên hết sức phức tạp, bao gồm nhiều chi tiết và hài hòa ở bên trong; 3 có thể có sự tổng hợp giữa sự mô phỏng giản đơn một đối tượng nhìn thấy với sự chiếm lĩnh thế giới bằng tinh thần khi ấy sẽ nắm bắt được bản thân nguyên tắc tạo ra sự vật, chứ không phải các hình thức của tự nhiên được lĩnh hội cùng lúc như là những hình thức vừa là đặc thù của nó, vừa thể hiện tâm hồn của nghệ sĩ. Cho nên, sự quan sát và nghên cứu các “chi tiết” được kết hợp với sự tự biểu hiện của người quan sát “Nếu sự mô phỏng đơn giản dựa vào sự sự kiến lập bình thản cái có thật, vào mọi sự quan sát nó, còn bút pháp thì dựa trên sự thụ cảm các hiện tượng bằng một tâm hồn nhạy cảm và tài ba, thì phong cách dựa trên những dinh lũy nhận thức vững chắc nhất, trên chính bản chất của các sự vật, bởi vì chúng ta có nhiệm vụ nhận thức nó trong trong những hình ảnh thị giác và xúc giác” J-W Goethe – Tuyển tập bộ 10 tập. M., 1978, tr. 26-30. Nietzsche đã tạo ra nguồn cảm hứng mới cho việc nghiên cứu sau này theo hướng không chia tách hai bình diện “kĩ thuật” và “tư tưởng hệ” của vấn đề Phong cách. Trong Những ý nghĩ không hợp thời Unzeitgemäße Betrachtungen, 1873, ông nói về Phong cách, bàn về sự đối lập hai sức mạnh, hay là hai nền móng sáng tạo làm nên tác phẩm mà theo ông, kiến trúc nằm ngoài sự đối lập ấy “Từ bản thân, người kiến trúc sư không đại diện cho cả trạng thái Dionysian, lẫn trạng thái Apollonian”. Sau đó, gắn kiến trúc với sự “chiến thắng thời tiết khốc liệt” và “ý chí quyền lực”, ông kết luận “Tình cảm tối cao với quyền lực và đức tin thể hiện ở chỗ nó có phong cách tối cao”; “Quyền lực … sống với ý nghĩ cho rằng không gì có thể làm trái với nó; nó dựa vào chính bản thân mình… tất cả những điều đó tạo ra phong cách tối cao” F. Nietzsche – Tiểu luận về cái không hợp thời// F. Nietzsche – Zarathustra nói như thế Tác phẩm chọn lọc. M., 1990, tr. 385, 386. Vì “chiến thắng thời tiết khốc liệt” hiển nhiên trùng khớp với trật tự Apollonian và đưa các yếu tố tự phát vô dạng vô hình Dionysian vào khuôn khổ định sẵn, nên phong cách vĩ đại hay “tối cao” là kết quả thâm nhập lẫn nhau giữa trật tự và tự phát cho tới mức không còn có sự khác biệt hoàn toàn giữa chúng, sự thâm nhập trở nên thiêng liêng như là qui phạm bởi một uy thế không thể chối cãi quyền lực. Tư tưởng của Goethe có ý nghĩa tích cực ở giai đoạn giao nhau giữa hai thế kỉ XIX và XX. Công trình nghiên cứu Bút pháp, diện mạo và phong cách 1912 của Vyach. Ivanov trực tiếp nhắm vào bài báo của ông. Nhưng thay vì ba khả năng sáng tạo do các nghệ sĩ khác nhau thực hiện, nhà triết học Nga đã nhìn thấy sự trưởng thành biện chứng của một người sáng tác chuyển từ khả năng này qua khả năng khác và bằng cách ấy vươn lên chiếm lĩnh và tái tạo thế giới một cách mới mẻ, ở những cấp độ cao hơn. Theo Vyach. Ivanov, tình huống khởi đầu là sở đắc “năng khiếu đặc sắc” của một “bút pháp[3] độc đáo và giọng điệu riêng chỉ thuộc về anh ta”. Ở trường hợp này, “bút pháp” không phải là phẩm chất sáng tác đã được tạo ra, mà là “nguyên tắc hình thái của sự trưởng thành nghệ thuật” “đã chứa sẵn trong bản thân, như trong hạt giống, một cá tính trong tương lai tựa như một tin tức tốt lành”. Tình huống thứ hai giống như sự phủ định tình huống thứ nhất và chuyển sang tình huống tiếp theo ấy là “sở đắc một diện mạo nghệ thuật”, muốn đạt có được tình huống ấy, phải hi sinh bút pháp. Nhưng kết quả của sự tự hi sinh này có thể là “một nguyên tắc hình thái mới của đời sống sáng tạo”. Nếu ở trường hợp đầu, nhà triết học đề cập tới âm nhạc chắc chắn nó có nghĩa là nhân tố tự phát Dionysian, thì ở trường hợp thứ ba, nguyên tắc mới – “phong cách” – trực tiếp gắn với Apollon sức mạnh của nó là sức mạnh của Thần y – “thực sự là sức mạnh của Apollon như Đức chúa Trời”. Và để tìm được Phong cách “đôi khi cần phải biết khước từ diện mạo”. Chuỗi lập luận tiếp theo của Vyach. Ivanov tỏ ra gần nhất với tư tưởng của Geothe “Bút pháp là hình thức chủ quan, phong cách là hình thức khách quan. Bút pháp mang tính trực tiếp, phong cách mang tính gián tiếp…”. Nhưng điều được nói sau đó về “phong cách lớn” lại là tái nhận thức, có ý tranh luận với các nhận xét của Nietzsche “Ông ấy đòi hi sinh cá nhân hoàn toàn, dâng hiến trọn vẹn cho nguyên lí khách quan hay toàn vũ trụ, hoặc là trong tư tưởng thuần túy của nó Dante, hoặc là dưới dạng hình thức bổ trợ và tòng thuộc nào đấy, khẳng định sự hiệp thông thần thánh” Vyach. Ivanov – Tuyển tập. Bruxelles, 1974, tr. 616-626. Ở đây, tư tưởng của Nietzsche về uy thế mâu thuẫn với tư tưởng về chủ nghĩa tập thể toàn dân hoặc toàn vũ trụ. Vè đại thể, nguyên tắc nhận thức bản chất của Phong cách chung cho các nhà tư tưởng khác nhau sở dĩ có được ảnh hưởng lớn lao nhờ dựa vào hai phạm trù quen thuộc là chủ thể và khách thể. Từ đây xuất hiện khả năng đưa vấn đề sang ngôn ngữ của tâm lí học sáng tạo. Đồng thời, với cách tiếp cận này, các đặc điểm thuộc những bình diện khác nhau của tác phẩm sẽ được trộn lẫn với nhau một mặt, thuộc văn bản; mặt khác, thuộc thuộc cấu trúc của thế giới được mô tả và hệ thống giá trị được phản ánh trong cơ cấu thế giới của nhân vật. Phương án thứ hai trong việc giải quyết vấn đề Phong cách được kiến tạo ở chính sự phân biệt bề mặt và chiều sâu của tác phẩm, dẫn tới quan niệm nhị nguyên về hình thức. Nó là con đẻ của chủ nghĩa hình thức trong nghệ thuật học châu Âu trong cuốn Những khái niệm cơ bản của lịch sử nghệ thuật 1915, Heinrich Velflin đã phân biệt “bình diện biểu hiện” và “phương thức mô tả như chính nó”. Sau này, hướng tiếp cận mới mẻ này thể hiện hiệu quả lớn lao trong các công trình nghiên cứu mĩ học của Bakhtin và Loshev. Bakhtin phân biệt hai dạng hình thức – hình thức kết cấu tổ chức chất liệu và hình thức cấu trúc giá trị điều chỉnh đối tượng thẩm mĩ. Theo ông, bên ngoài sự phân biệt nghiêm nhặt hai loại hình thức ấy “không thể đặt vấn đề đúng đắn về phong cách” Bakhtin – Những vấn đề văn học và mĩ học, tr. 22. Từ đây xuất hiện luận điểm tiếp theo, trong đó có khái niệm cơ cấu[4] đúng hơn là hai cơ cấu khác nhau “Phong cách ngôn từ theo nghĩa đen quan hệ của tác giả với ngôn ngữ và các phương thức sử dụng ngôn ngữ do anh ta ước định chỉ là sự phản ánh phong cách nghệ thuật của nó quan hệ với đời sống và thế giới đời sống cùng phương thức chế biến con người và thế giới của con người do quan hệ ấy ước định” trong một bản chất định trước của chất liệu Bakhtin – Mĩ học sáng tạo ngôn từ. Tr. 169. Theo Loshev, vấn đề Phong cách gắn với sự phân biệt “cấu trúc nghệ thuật” và cơ sở siêu cấu trúc” của nó; một mặt, phân biệt “nguồn gốc cơ bản của phong cách” – “nguyên mẫu” hay là “mô hình gốc” của nó và, mặt khác – “sơ đồ kết cấu của tác phẩm mà ta nói về phong cách của nó” Loshev – Vấn đề phong cách nghệ thuật. Kiev, 1994. Tr. 224-225. Công thức ấy cũng như ý kiến của Bakhtin gần gũi với luận điểm của Mikhailov ““Lối văn”[5] phản ánh biến thể của cái chung, trong khi đó, theo cách hiểu hiện đại, “phong cách” bao trùm toàn bộ chỉnh thể của tác phẩm, mở ra con đường vào bên trong và do ý nghĩa nội tại của chỉnh thể sinh ra” Mikhailov – Vấn đề phong cách và các giai đoạn phát triển của văn học hiện đại// Lí luận phong cách văn học. Các bình diện nghiên cứu hiện đại. M., 1982, tr. 344. Việc phân biệt “phong cách ngôn ngữ” và phong cách “theo nghĩa rộng nghệ thuật học của từ ấy” của Likhachev cũng tương tự như vậy Likhachev – Sự phát triển của văn học Nga từ thế kỉ Xđến thế kỉ XVII. Tr. 11 Nghiên cứu kinh nghiệm định nghĩa khái niệm, cũng như kinh nghiệm phân loại dựa trên những cơ sở khác nhau giúp ta nắm vững vấn đề Phong cách. Phương thức mô tả so sánh các Phong cách khác nhau phổ biến nhất là sự đối lập chúng với sự hỗ trợ của hệ thống khái niệm cặp đôi. Chẳng hạn, Zirmunski đối lập hai cấu trúc phong cách trong bài Về thơ cổ điển và thơ lãng mạn; việc phân chia các cấu trúc phong cách thành hai loại “giản đơn” và “phức tạp” cũng thể hiện nguyên tắc ấy Grigoriev; phân biệt các Phong cách “gốc” và “thứ sinh”. Ai cũng biết, Heinrich Wölfflin cũng đưa ra cách mô tả Phong cách như thế và lần đầu tiên nó được ông sử dụng trong cuốn sách nổi tiếng Phục hưng và Baroque 1889. TAMARCHENKO Người dịch Lã Nguyên Nguồn Поэтика Словарь актуальных терминов и понятий гл. Науч. Ред. Тамарченко – М., Изд. Кулагиной, Intrada, 2008. [1] Xem Tolstoi – Tôi thấy gì trong giấc mơ/ Tolstoi – Tuyển tập bộ 22 tập, T. 14, – 298. Đoạn văn trên được trích từ trang 292 – ND. [2] Tiếng Nga “Мане́ра”, có gốc từ tiếng Pháp “manière” – ND [3] Tiếng Nga “Мане́ра”, có gốc từ tiếng Pháp “manière” – ND. [4] Tiếng Nga “установка” – ND [5] Tiếng Nga “слог” -ND
YOMEDIA Bài học giúp các em nắm được khái niệm quá trình văn học, bước đầu có ý niệm về các trào lưu văn học tiêu biểu. Hiểu được khái niệm phong cách văn học, biết nhận diện những biểu hiện của phong cách văn học. Tóm tắt bài Quá trình văn học a. Khái niệm quá trình văn học Văn học là một loại hình nghệ thuật, một hình thái ý thức XH đặc thù luôn vận động biến chuyển. Diễn tiến của VH như một hệ thống chỉnh thể với sự hình thành tồn tại, thay đổi có mối quan hệ chặt chẽ với thời kỳ lịch sử. Quá trình VH là diễn biến hình thành tồn tại, phát triển, thay đổi của VH qua các thời kỳ lịch sử. b. Những qui luật cơ bản của quá trình văn học Quy luật vh gắn bó với đời sống”Thời đại nào văn học ấy”. Ví dụ CM/8 1945 mở ra trang sử mới của dân tộc đồng thời đánh dấu một thời kì mới trong sự vận động của văn học. Quy luật kế thừa và cách tân Ví dụ VHDG là cội nguồn của VH viết. Phong trào thơ mới1932-1945kế thừa nhiều yếu tố truyền thống của thơ ca cổ điển đồng thời khám phá mới mẻ. Qui luật bảo lưu và tiếp biến Ví dụ Sự giao lưu của VHVN với văn học TQ, Pháp, Nga. Trào lưu văn học Hoạt động nổi bật của quá trình VH là trào lưu VH. Trào lưu VH là một hiện tượng có tính chất lịch sử, ra đời và mất đi trong một khoảng thời gian nhất định. Đó là một phong trào sáng tác tập hợp những tác giả tác phẩm gần gũi nhau về cảm hứng, tư tưởng tạo thành một dòng rộng lớn có bề thế trong đời sống VH của một dân tộc. Các trào lưu văn học của thế giới VH thời Phục hưng Đặc trưng giải phóng con người, đề cao cá tính, chống lại sự khắc nghiệt của thời kỳ trung cổ. Tiêu biểu Sếch-xpia Anh, Xéc-van-tét Tây Ban Nha. Chủ nghĩa cổ điển Pháp TKXVII Đặc trưng xem văn hóa cổ đại là hình mẫu lý tưởng, đề cao lý trí, sáng tác theo quy luật chặt chẽ. Tiêu biểu Cooc-nây, Mô-li-e Pháp. Chủ nghĩa lãng mạn TKXVIII-XIX Đặc trưng đề cao những nguyên tắc chủ quan, lấy đề tài trong thế giới tưởng tượng của nhà văn, hình tượng nghệ thuật thường có vẻ đẹp khác thường. Tiêu biểu Huy-gô Pháp, Sin-le Đức. Chủ nghĩa hiện thực TKXIX Đặc trưng thiên về nguyên tắc khách quan, thường lấy đề tài từ cuộc sống hiện thực, xây dựng những tính cách điển hình vừa khái quát vừa cụ thể, tình cách phát triển hợp logic cuộc sống. Tiêu biểu Ban-dắc Pháp,Tôn-xtôi Nga. Chủ nghĩa hiện thực XHCN Đặc trưng miêu tả cuộc sống trong quá trình phát triển CM, đề cao vai trò lịch sử của nhân dân. Tiêu biểu M. Gor-ki Nga. Ở Việt Nam xuất hiện các trào lưu VH lãng mạn 1930-1945Tự lực văn đoàn và phong trào Thơ mới. VH hiện thực phê phán Ngô Tất Tố, Nam Cao … VH hiện thực XHCN HCM, Tố Hữu, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu… Phong cách văn học phong cách nghệ thuật a. Khái niệm phong cách văn học Là những nét riêng biệt độc đáo của một tác giả trong quá trình nhận thức và phản ánh cuộc sống được thể hiện trong các yếu tố nội dung và hình thức của tác phẩm Quá trình VH mang tính lịch sử nên phong cách cũng in đậm dấu ấn dân tộc và thời đại. b. Những biểu hiện của phong cách văn học Giọng điệu riêng biệt, cách nhìn, cách cảm thụ có tính chất khám phá. Sự sáng tạo các yếu tố thuộc nội dung tác phẩm. Hệ thống phương thức biểu hiện, các thủ pháp kĩ thuật mang dấu ấn riêng. Thống nhất từ cốt lõi nhưng sự triển khai phải đa dạng, đổi mới. Có phẩm chất thẩm mỹ cao, giàu tính nghệ thuật. Bài tập minh họa Ví dụ Trình bày một cách ngắn gọn và đầy đủ những nét chính của phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh. Gợi ý làm bài Phong cách Hồ Chí Minh rất hấp dẫn, độc đáo, đa dạng mà rất thống nhất. Ở mỗi thể loại văn học, từ văn chính luận, truyện, ký đến thơ ca, Hồ Chí Minh đều tạo được những nét phong cách riêng độc đáo và hấp dẫn. Văn chính luận của Người thường ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ, lý lẽ đanh thép, bằng chứng đầy sức thuyết phục, đầy tính chiến đấu và đa dạng về bút pháp. Văn chính luận của Người có sự kết hợp giữa tình và lý, lời văn giàu hình ảnh, giọng điệu khi ôn tồn thân mật như đưa lẽ phải thấm vào lòng người, khi mạnh mẽ, hùng hồn. Truyện, ký của Người được viết với bút pháp rất hiện đại, đầy sáng tạo, thể hiện tính chiến đấu mạnh mẽ và nghệ thuật trào phúng sắc bén. Tiếng cười trào phúng của Nguyễn Ái Quốc tuy nhẹ nhàng, hóm hỉnh nhưng thâm thúy, sâu cay. Thơ ca thể hiện sâu sắc và tinh tế vẻ đẹp tâm hồn Hồ Chí Minh. Những bài thơ nhằm mục đích tuyên truyền cách mạng thường được viết bằng hình thức bài ca, lời lẽ giản dị, mộc mạc, dễ nhớ mang màu sắc dân gian hiện đại. Những bài thơ nghệ thuật viết theo cảm hứng thẩm mỹ hầu hết là thơ tứ tuyệt cổ điển, bằng chữ Hán, mang đặc điểm của thơ cổ Phương Đông với sự kết hợp hài hòa giữa màu sắc cổ điển với bút pháp hiện đại, giản dị mà sâu sắc, lấp lánh chất thép mà chứa chan chất tình, từ tư tưởng đến hành động có sự vận động tự nhiên và nhất quán hướng về sự sống, ánh sáng và tương lai. Nhìn chung, văn thơ của Hồ Chí Minh có phong cách hết sức phong phú, đa dạng mà thống nhất. Đó là cách viết ngắn gọn, trong sáng, giản dị, sử dụng linh hoạt các thủ pháp và bút pháp nghệ thuật khác nhau, nhằm thể hiện một cách nhuần nhị và sâu sắc nhất tư tưởng của Hồ Chí Minh, “Tinh hoa của dân tộc, khí phách của non sông”. - Mod Ngữ văn 12 HỌC247 ZUNIA9 Bài học cùng chương ZUNIA9 XEM NHANH CHƯƠNG TRÌNH LỚP 12 YOMEDIA
Soạn bài Quá trình văn học và phong cách văn học giúp học sinh chuẩn bị bài tốt hơn trước khi đến lớp, nắm được khái niệm quá trình văn học, bước đầu có ý niệm về các trào lưu văn học tiêu biểu. Bên cạnh đó, các em cũng hiểu được khái niệm phong cách văn học, biết nhận diện những biểu hiện của phong cách văn những hướng dẫn chi tiết trả lời câu hỏi sách giáo khoa Ngữ văn 12 tập 1dưới đây các em không chỉ soạn bài tốt mà còn nắm vững các kiến thức quan trọng của bài học tham khảo...Soạn bài Quá trình văn học và phong cách văn học ngắn gọnGợi ý trả lời các câu hỏi bài tập soạn bài Quá trình văn học và phong cách văn học ngắn gọn nhất trang 183 SGK Ngữ văn 12 tập 1 trang 183 SGK Ngữ văn 12 tập 1Quá trình văn học là gì? Nêu các quy luật chung của quá trình văn học?Trả lời- Quá trình văn học diễn biến hình thành, tồn tại, thay đổi, phát triển của văn học qua các thời Quy luật chung của quá trình văn học+ Quy luật phổ biến của văn học là gắn bó với đời sống và lịch sử+ Quy luật kế thừa và cách tân+ Quy luật bảo lưu và tiếp diễnCâu 2 trang 183 SGK Ngữ văn 12 tập 1Xác định đặc trưng cơ bản của văn học Phục hưng, chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa hiện thực phê phán, chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Nói vắn tắt về các trào lưu văn học hiện đại trên thế giới và các trào lưu văn học ở Việt lời* Các đặc trưng cơ bản- Văn học thời phục hưng ở châu Âu thế kỉ XV, XVI đề cao con người, giải phóng cá tính chống lại tư tưởng khắc nghiệt thời Trung Chủ nghĩa cổ điển ở Pháp thế kỉ XVII coi văn học cổ đại là hình mẫu lí tưởng, luôn đề cao lí trí, sáng tạo theo các quy phạm chặt Chủ nghĩa lãng mạn đề cao những nguyên tắc chủ quan, thường lấy đề tài trong thế giới tưởng tượng của nhà văn, cố gắng xây dựng hình tượng nhân vật sao cho phù hợp với lí trí và ước mơ của nhà Chủ nghĩa hiện thực phê phán thế kỉ XIX thiên về những nguyên tắc khách quan, chú ý chọn đề tài trong cuộc sống hiện thực, chủ trương “nhà văn là người thư kí trung thành của thời đại”, quan sát thực tế để sáng tạo các điển Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa thế kỉ XX miêu tả cuộc sống trong quá trình phát triển cách mạng.* Thế kỉ XX còn chứng kiến sự xuất hiện của các trào lưu hiện đại chủ nghĩa- Chủ nghĩa siêu thực ra đời 1942 ở Pháp với quan niệm thế giới trên hiện thực mới là mảnh đất sáng tạo của nghệ Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo trong văn học Mĩ la – Chủ nghĩa hiện sinh ở Châu Âu.* Ở Việt Nam trong giai đoạn 1930 – 1945 hai trào lưu công khai xuất hiện- Trào lưu lãng mạn với phong trào Thơ Trào lưu hiện thực phê phán trong các sáng tác của Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Trào lưu hiện thực xã hội chủ nghĩa các tác phẩm Hồ Chí Minh, Tố Hữu...Câu 3 trang 183 SGK Ngữ văn 12 tập 1Thế nào là phong cách văn học?Trả lời- Phong cách văn học là diện mạo riêng biệt của sáng tác được tạo thành bởi sự thống nhất của các phương tiện biểu hiện phù hợp với một cái nhìn độc đáo có tính phát hiện đối với đời Cái nhìn này không chỉ thể hiện lập trường, thái độ đối với đời sống mà quan trọng hơn là bộc lộ sự hiểu biết và tình cảm của con người đối với cuộc 4 trang 183 SGK Ngữ văn 12 tập 1Phân tích những biểu hiện của phong cách văn học?Trả lờiNhững biểu hiện của phong cách văn học- Giọng điệu riêng biệt, cách nhìn, sự cảm thụ có tính khám phá- Sự sáng tạo về mặt nội dung- Phương thức biểu hiện, thủ pháp nghệ thuật tạo ra dấu ấn riêng- Thống nhất cốt lõi, nhưng có sự triển khai đa dạng đổi mới- Có phẩm chất thẩm mĩ cao, giàu tính nghệ dẫnSoạn bài Quá trình văn học và phong cách văn học chi tiếtGợi ý trả lời các câu hỏi bài tập soạn bài Quá trình văn học và phong cách văn học chi tiết trang 183 SGK Ngữ văn 12 tập 1 trang 183 SGK Ngữ văn 12 tập 1Quá trình văn học là gì? Nêu các quy luật chung của quá trình văn học?Trả lời- Quá trình văn học là diễn biến hình thành, tồn tại, phát triển, thay đổi của văn học qua các thời kì lịch Quá trình văn học luôn tuân theo những quy luật chung+ Thứ nhất Văn học gắn bó với đời sống, thời đại nào văn hoá ấy, những chuyển biến của lịch sử xã hội thường kéo theo những biến động trong lịch sử phát triển của văn học.+ Thứ hai Văn học phát triển trong sự kế thừa và cách tân. Văn học dân gian là cội nguồn của văn học viết, người sau kế thừa giá trị văn học của người trước và tạo nên giá trị mới.+ Thứ ba Văn học của một dân tộc tồn tại vận động trong sự bảo lưu và tiếp biến, là một dòng chảy của văn học thế 2 trang 183 SGK Ngữ văn 12 tập 1Xác định đặc trưng cơ bản của văn học Phục hưng, chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa hiện thực phê phán, chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Nói vắn tắt về các trào lưu văn học hiện đại trên thế giới và các trào lưu văn học ở Việt lời* Đặc trưng cơ bản của các trào lưu văn học+ Văn học thời Phục hưng châu Âu thế kỉ XV, XVI giải phóng con người, đề cao cá tính, chống lại sự khắc nghiệt của thời kì Trung cổ.+ Chủ nghĩa cổ điển Pháp, thế kỉ XVII coi văn hoá cổ đại là hình mẫu, lí tưởng, đề cao lí trí, sáng tác theo quy luật chặt chẽ.+ Chủ nghĩa lãng mạn hình thành từ các nước Tây Âu sau cách mạng Pháp 1789 đề cao những nguyên tắc chủ quan, lấy đề tài trong thế giới tưởng tượng của nhà văn, hình tượng nghệ thuật thường có vẻ đẹp khác thường.+ Chủ nghĩa hiện thực phê phán châu Âu thế kỉ XIX thiên về những nguyên tắc tôn trọng khách quan, thường lấy đề tài từ cuộc sống hiện thực, xây dựng những tính cách điển hình vừa có tính khái quát vừa có tính cụ thể, tính cách phát triển hợp logic cuộc sống.+ Chủ nghĩa hiện thực XHCN ra đời sau Cách mạng tháng Mười Nga, miêu tả cuộc sống trong quá trình phát triển cách mạng, đề cao vai trò lịch sử của nhân dân.* Các trào lưu văn học hiện đại trên thế giới và các trào lưu văn học ở Việt Trên thế giới+ Văn học thời Phục hưng châu Âu thế kỉ XV, XVI. Đặc trưng của trào lưu này là giải phóng con người, đề cao cá tính, chống lại sự khắc nghiệt của thời kì Trung cổ, tác giả tiêu biểu, sếch-xpia Anh, Xéc-van-tét Tây Ban Nha...+ Chủ nghĩa cổ điển Pháp, thế kỉ XVII coi văn hoá cổ đại là hình mẫu, lí tưởng, đề cao lí trí, sáng tác theo quy luật chặt chẽ, tác giả tiêu biểu, Cooc-nây, Mô-li-ê Pháp.+ Chủ nghĩa lãng mạn hình thành từ các nước Tây Âu sau cách mạng Pháp 1789 đề cao những nguyên tắc chủ quan, lấy đề tài trong thế giới tưởng tượng của nhà văn, hình tượng nghệ thuật thường có vẻ đẹp khác thường. Tác giả tiêu biểu, V. Huy-gô Pháp, F. Sin-le Đức.+ Chủ nghĩa hiện thực phê phán châu Âu thế kỉ XIX thiên về những nguyên tắc tôn trọng khách quan, thường lấy đề tài từ cuộc sống hiện thực, xây dựng những tính cách điển hình vừa có tính khái quát vừa có tính cụ thể, tính cách phát triển hợp logic cuộc sống. Tác giả tiêu biểu, H. Ban-dắc Pháp, L. Tôn-xtôi Nga+ Chủ nghĩa hiện thực XHCN ra đời sau Cách mạng tháng Mười Nga, miêu tả cuộc sống trong quá trình phát triển cách mạng, đề cao vai trò lịch sử của nhân dân. Người mở đầu M. Gor-ki Nga.+ Chủ nghĩa siêu thực Pháp - 1924 với đặc trưng quan niệm về thế giới trên hiện thực mới là mảnh đất sáng tạo của nghệ sĩ. Tác giả tiêu biểu, A. Brơ-tôn.+ Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo Mĩ La - Tinh, sau Thế chiến thứ hai, coi thực tại bao gồm cả thế giới tâm linh, niềm tin tôn giáo, các huyền thoại, truyền thuyết. Tác giả tiêu biểu, G. Ở Việt Nam+ Trào lưu lãng mạn 1932 - 1945 Thơ mới, tiểu thuyết lãng mạn. Tác giả tiêu biểu Thế Lữ, Huy Cận, Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Nguyễn Tuân+ Trào lưu hiện thực phê phán gồm các truyện ngắn, tiểu thuyết hiện thực phê phán. Tác giả tiêu biểu Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố...+ Trào lưu văn học hiện thực XHCN Gồm nhiều thể loại, trước và sau Cách mạng Tháng Tám, đặc biệt phát triển trong thời kì kháng chiến và xây dựng XHCN ở Miền Bắc.Bài 3 trang 183 SGK Ngữ văn 12 tập 1Thế nào là phong cách văn học?Trả lời- Khái niệm phong cách văn học là những nét riêng biệt, độc đáo của một tác giả trong quá trình nhận thức và phản ánh cuộc sống, thể hiện trong các yếu tố nội dung và hình thức của từng tác Phong cách văn học nảy sinh do chính những nhu cầu của cuộc sống, vì cuộc sống luôn đòi hỏi sự xuất hiện những cái mới, những cái không lặp lại bao giờ, nảy sinh do nhu cầu của quá trình sáng tác văn Quan hệ giữa phong cách văn học và quá trình văn học quá trình văn học được đánh dấu bằng những nhà văn kiệt xuất với phong cách độc đáo của họ; phong cách in đậm dấu ấn riêng biệt của tác 4 trang 183 SGK Ngữ văn 12 tập 1Phân tích những biểu hiện của phong cách văn học?Trả lờiNhững biểu hiện của phong cách văn học– Cái nhìn, cách cảm thụ có tính khám phá và ở giọng điệu riêng biệt của nhà dụ Trước Cách mạng tháng Tám 1945, thơ Huy Cận là "một tiếng địch buồn", "một bản ngậm ngùi dài dài", còn thơ Xuân Diệu lại là "nguồn sống dào dạt", "đắm say tình yêu, đắm say cảnh trời, sống vội vàng quấn quýt ..."- Biểu hiện ở sự sáng tạo các yếu tố thuộc nội dung tác phẩm, tạo thành dấu ấn riêng của tác Trước Cách mạng tháng Tám, Nam Cao tập trung thể hiện bi kịch tinh thần, nỗi đau bị tha hóa, bị xói mòn nhân phẩm con người lao động nghèo, trong xã hội vô nhân đạo. Còn nhà văn Nguyễn Tuân lại nghiêng về thể hiện vẻ đẹo tài hoa, xuất chúng của những con người một thời "vang bóng".– Hệ thống thủ pháp nghệ thuật riêng ngôn từ, kết cấu, miêu tả,…>>> Đọc thêm văn mẫu Phong cách là chỗ độc đáo về tư tưởng cũng như nghệ thuật có phẩm chất thẩm mĩSoạn bài Quá trình văn học và phong cách văn học phần Luyện tậpBài 1 luyện tập trang 183 SGK Ngữ văn 12 tập 1Phân tích sự khác biệt giữa trào lưu văn học lãng mạn và trào lưu văn học hiện thực phê phán qua truyện ngắn Chữ người từ tù của Nguyễn Tuân với đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia trích Số đỏ của Vũ Trọng lờiTruyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân thuộc trào lưu lãng mạn, Số đỏ của Vũ Trọng Phụng thuộc trào lưu văn học hiện thực phê phán. Cần phân biệt hai tác phẩm dựa vào đặc trưng của hai trào lưu- Tác phẩm lãng mạn Chữ người tử tù lấy đề tài lịch sử nhưng sáng tác thêm, xây dựng hình tượng nhân vật có vẻ đẹp phi thường. Huấn Cao có tài năng khác thường, tấm lòng trong sáng khác thường thiên lương trong sáng, và lòng can đảm cũng khác thường cuộc kì ngộ giữa nghệ sĩ Huấn Cao với công chúng ham mê nghệ thuật cai ngục và thơ lại diễn ra khác thường trong nhà tù trước ngày bị hành quyết.- Tác phẩm hiện thực phê phán đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia lấy đề tài từ cuộc sống hiện thực, xây dựng những tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình Xuân tóc đỏ, Tuyết, gia đình Văn Minh..., tính cách phát triển hợp logic cuộc 2 luyện tập trang 183 SGK Ngữ văn 12 tập 1Nêu những nét chính về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân và Tố lời- Phong cách nghệ thuật của Tố Hữu+ Thơ trữ tình - chính trị+ In đậm dấu ấn sử thi và cảm hứng lãng mạn+ Giọng điệu tâm tình, ngọt ngào, đậm đà tính dân tộc- Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân+ Ngông ngạo, tài hoa, uyên bác+ Là nhà văn của những tính cách độc đáo, của những tình cảm, cảm giác mãnh liệt, những phong cảnh tuyệt mĩ.+ Tự do, phóng túng và ý thức sâu sắc về cái tôi cá tắt kiến thức cơ bảnI. Quá trình văn học1. Khái niệm- Quá trình văn học là diễn tiến hình thành, tồn tại, thay đổi, phát triển của văn học qua các thời kì lịch Quá trình văn học là sự vận động của văn học trong tổng thể, bao gồm tất cả các tác phẩm văn học với chất lượng khác nhau, tất cả các hình thức tồn tại của văn học từ truyền miệng đến chép tay, in Quá trình văn học luôn tuân theo những quy luật chung+ Quy luật văn học gắn bó với đời sống "Thời đại nào văn học ấy”.+ Quy luật kế thừa và cách tân+ Qui luật bảo lưu và tiếp biến2. Trào lưu văn học- Trào lưu văn học là một hiện tượng có tính chất lịch sử, ra đời và mất đi trong một khoảng thời gian nhất định. Đó là một phong trào sáng tác tập hợp những tác giả tác phẩm gần gũi nhau về cảm hứng, tư tưởng tạo thành một dòng rộng lớn có bề thế trong đời sống văn hóa của một dân Các trào lưu văn học của thế giới+ Văn học thời Phục hưng giải phóng con người, đề cao cá tính, chống lại sự khắc nghiệt của thời kỳ trung cổ.+ Chủ nghĩa cổ điển Pháp thế kỉ XVII xem văn hóa cổ đại là hình mẫu lý tưởng, đề cao lý trí, sáng tác theo quy luật chặt chẽ.+ Chủ nghĩa lãng mạn thế kỉ XVIII - XIX đề cao những nguyên tắc chủ quan, lấy đề tài trong thế giới tưởng tượng của nhà văn, hình tượng nghệ thuật thường có vẻ đẹp khác thường.+ Chủ nghĩa hiện thực thế kỉ XIX thiên về nguyên tắc khách quan, thường lấy đề tài từ cuộc sống hiện thực, xây dựng những tính cách điển hình vừa khái quát vừa cụ thể, tình cách phát triển hợp logic cuộc sống.+ Chủ nghĩa hiện thực XHCN miêu tả cuộc sống trong quá trình phát triển cách mạng, đề cao vai trò lịch sử của nhân Ở Việt Nam xuất hiện các trào lưu+ Văn học lãng mạn 1930 - 1945 Tự lực văn đoàn và phong trào Thơ mới.+ Văn học hiện thực phê phán Ngô Tất Tố, Nam Cao…+ Văn học hiện thực xã hội Chủ nghĩa Hồ Chí Minh, Tố Hữu, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu,…II. Phong cách văn học1. Khái niệm- Phong cách văn học là những nét riêng biệt độc đáo của một tác giả trong quá trình nhận thức và phản ánh cuộc sống được thể hiện trong các yếu tố nội dung và hình thức của tác Quá trình văn học mang tính lịch sử nên phong cách cũng in đậm dấu ấn dân tộc và thời Biểu hiện của phong cách văn học- Giọng điệu riêng biệt, cách nhìn, cách cảm thụ có tính chất khám Sự sáng tạo các yếu tố thuộc nội dung tác Hệ thống phương thức biểu hiện, các thủ pháp kĩ thuật mang dấu ấn Thống nhất từ cốt lõi nhưng sự triển khai phải đa dạng, đổi Có phẩm chất thẩm mỹ cao, giàu tính nghệ kếtQuá trình văn học là diễn tiến hình thành, tồn tại, thay đổi, phát triển của văn học qua các thời kì lịch sử. Hoạt động nổi bật của quá trình văn học là các trào lưu văn học. Thành tựu chính của quá trình văn học kết tinh ở các phong cách văn học độc đây là nội dung chi tiết bài soạn văn Quá trình văn học và phong cách văn học do Đọc Tài Liệu tổng hợp và biên soạn. Hi vọng tài liệu sẽ là nguồn tham khảo hữu ích cho các em trong quá trình tìm hiểu về các quá trình văn học, nhận biết các biểu hiện của phong cách văn học. Chúc các em học và tiếp thu bài tốt ![ĐỪNG SAO CHÉP] - Bài viết này chúng tôi chia sẻ với mong muốn giúp các bạn tham khảo, góp phần giúp cho bạn có thể để tự soạn bài Quá trình văn học và phong cách văn học một cách tốt nhất. "Trong cách học, phải lấy tự học làm cố" - Chỉ khi bạn TỰ LÀM mới giúp bạn HIỂU HƠN VỀ BÀI HỌC và LUÔN ĐẠT ĐƯỢC KẾT QUẢ CAO.
phong cách văn học